Đồng bộ thể chế và nguồn lực để triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia
Thảo luận tại tổ về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển giáo dục và y tế, các đại biểu đã bày tỏ sự đồng tình cao với sự cần thiết ban hành hai chương trình, đồng thời đề xuất nhiều nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện dự thảo nghị quyết, bảo đảm tính thống nhất và khả thi trong tổ chức thực hiện.

Các đại biểu thảo luận tại Tổ 13. Ảnh: Mạnh Hưng
Sáng 25/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Đoàn ĐBQH tỉnh Sơn La và Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long đã thảo luận tại Tổ 13 về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035 và chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035.
Nâng cao chất lượng giáo dục, thu hẹp khoảng cách vùng miền
Theo ĐBQH Nguyễn Đình Việt (Sơn La), việc đầu tư cho giáo dục, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa là cần thiết và phù hợp với mục tiêu nhân văn của chương trình. Trong đó, dự thảo nghị quyết đã đề cập đến các mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, tuy nhiên vẫn còn một số điểm cần được cụ thể hóa để bảo đảm khả năng triển khai và giám sát.

ĐBQH Nguyễn Đình Việt (Sơn La) phát biểu. Ảnh: Mạnh Hưng
Một trong những vấn đề được các đại biểu lưu ý là nguồn lực và phân bổ đầu tư. ĐBQH Nguyễn Thị Minh Trang (Vĩnh Long) cho rằng chương trình có quy mô lớn, phạm vi toàn diện, do đó cần ưu tiên đầu tư có trọng tâm, tránh dàn trải. Đại biểu đề xuất thí điểm các mô hình đối tác công - tư (PPP) trong giáo dục, nhằm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, đồng thời giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước.
Về đội ngũ giáo viên, đại biểu Nguyễn Thị Minh Trang lưu ý mục tiêu nâng cao năng lực giáo viên, đặc biệt giáo viên dạy tiếng Anh còn thấp và chưa có tiêu chí đầu ra rõ ràng. Do đó, đề nghị quy định cụ thể các chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực giáo viên, chuẩn hóa năng lực số, ứng dụng hệ thống quản lý dự án tập trung để giám sát tiến độ và hiệu quả đầu tư theo thời gian thực.

ĐBQH Nguyễn Thị Minh Trang (Vĩnh Long) phát biểu. Ảnh: Mạnh Hưng
Về thẩm quyền quyết định Chương trình mục tiêu quốc gia về hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục, đại biểu Nguyễn Đình Việt đề nghị giao thẩm quyền quyết định đầu tư cho Chính phủ thay vì cho Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo. Theo đại biểu, đây là chương trình lớn, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực; do đó giao Chính phủ là phù hợp thẩm quyền và bảo đảm tính thống nhất.
Bên cạnh đó, các đại biểu cũng nhấn mạnh việc quy định tổng nguồn vốn cho cả giai đoạn 2026–2035 không chỉ riêng giai đoạn 2026–2030 để Quốc hội có căn cứ giám sát toàn diện.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Mạnh Hưng
Bổ sung cơ chế đột phá về nhân lực và tài chính
Thảo luận về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035, ĐBQH Chá A Của (Sơn La) nhấn mạnh tính thiết thực của chương trình đối với các vùng dân tộc thiểu số và các địa bàn khó khăn.
Tuy nhiên, đại biểu đề nghị làm rõ một số khái niệm trong dự thảo, đặc biệt là cụm từ “người yếu thế”. Theo đó, cần xác định rõ đối tượng thụ hưởng như hộ nghèo, cận nghèo, người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật… để bảo đảm thống nhất trong triển khai.

ĐBQH Chá A Của (Sơn La) phát biểu. Ảnh: Mạnh Hưng
Về cơ cấu chính quyền địa phương, đại biểu Chá A Của đề nghị phân định rõ vai trò giữa HĐND và UBND; trong đó HĐND ban hành cơ chế, chính sách, UBND lập và triển khai kế hoạch. Đại biểu nhấn mạnh việc phân định rõ ràng sẽ nâng cao trách nhiệm và hiệu quả thực hiện chương trình.
Một vấn đề nổi bật được các đại biểu quan tâm là nhân lực y tế vùng khó khăn. Từ thực tiễn địa phương miền núi, đại biểu Chá A Của cho biết việc thiếu nhân lực y tế do chưa có chính sách đủ mạnh. Đại biểu đề xuất cơ chế lương, thưởng đặc biệt, quy định thời gian công tác bắt buộc và mức đãi ngộ tương xứng, nhằm thu hút và giữ chân bác sĩ tại các vùng đặc biệt khó khăn.

ĐBQH Trần Thị Thanh Lam (Vĩnh Long) phát biểu. Ảnh: Mạnh Hưng
Theo đại biểu Nguyễn Đình Việt, mục tiêu “nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân” là quá rộng, bao hàm nhiều lĩnh vực ngoài phạm vi chương trình. Đại biểu đề nghị diễn đạt tập trung vào nội dung chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển. Đồng thời, nên gộp hai tiểu dự án về đổi mới hoạt động cung ứng dịch vụ y tế cơ sở và ứng dụng công nghệ thông tin, tránh phân tán nguồn lực.
Các đại biểu lưu ý cần rà soát câu từ và chỉ tiêu. Trong đó, một số chỉ tiêu nên diễn đạt linh hoạt, ví dụ “tối thiểu 90% đến năm 2030” thay vì “đạt 90% vào năm 2030”. Cụm từ “sinh ra sống” trong tỷ số giới tính khi sinh cần chỉnh sửa để chính xác chuyên môn.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Mạnh Hưng
Đại biểu Nguyễn Thị Minh Trang đánh giá chương trình đã thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ với ưu tiên đầu tư vượt trội cho y tế cơ sở, hướng đến mục tiêu mọi người dân có Sổ sức khỏe điện tử vào năm 2030.
Đại biểu chỉ ra những thách thức chương trình sẽ đối mặt với tập trung vào các vấn đề nhân lực y tế, quy mô vốn lớn, điều phối liên ngành, giám sát và đánh giá. Do đó, đại biểu đề xuất bổ sung cơ chế đột phá về nhân lực - tài chính, đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng nền tảng dữ liệu sức khỏe thống nhất, đồng thời hoàn thiện bộ chỉ số giám sát và cơ chế điều phối dựa trên dữ liệu.

Các đại biểu thảo luận tổ về các chương trình mục tiêu quốc gia. Ảnh: Mạnh Hưng
ĐBQH Trần Thị Thanh Lam (Vĩnh Long) đánh giá, các chương trình mục tiêu quốc gia đã thể chế hóa nhiều chủ trương lớn của Đảng về tăng cường bảo vệ, nâng cao sức khỏe nhân dân và thực hiện tốt công tác dân số. Tuy nhiên, đại biểu kiến nghị cần làm rõ vai trò trung tâm y tế khu vực, bổ sung mục tiêu bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân, làm rõ mô hình trạm y tế cấp xã và thiết kế cơ chế đặc thù phù hợp thực tiễn.
Các đại biểu cũng đề nghị bổ sung vùng ưu tiên như bãi ngang ven biển bên cạnh các vùng khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo. Đồng thời, cần quy định vai trò giám sát của HĐND, nhiệm vụ tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên.













