Động lực để phát triển kinh tế số Việt Nam đạt mục tiêu đề ra
Tại Hội thảo 'Phát triển kinh tế số trong kỷ nguyên mới' được Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức ngày 25/11, các chuyên gia đã phân tích xu hướng phát triển kinh tế số, những lĩnh vực tiềm năng, thách thức và động lực để kinh tế số Việt Nam đạt được mục tiêu đề ra.
5G tạo nên làn sóng phát triển toàn diện và bền vững
Tham luận tại hội thảo, bà Rita Mokbel - Chủ tịch Ericsson Việt Nam cho biết, trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đặt nền móng cho nền kinh tế số thông qua hạ tầng kết nối, dịch vụ công nghệ thông tin truyền thông và sớm ứng dụng công nghệ số. Hiện nay, Việt Nam đang bước vào một giai đoạn đầy tham vọng hơn, được dẫn dắt bởi đổi mới sáng tạo với động lực từ 5G, trí tuệ nhân tạo (AI) và điện toán đám mây.
Việt Nam đã xác lập tầm nhìn trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045, trong đó kinh tế số đóng góp 30% GDP vào năm 2030. Chính phủ giữ vai trò trọng yếu trong việc tháo gỡ rào cản và thúc đẩy nhanh quá trình phát triển hạ tầng, đồng thời đặt mục tiêu xây dựng 100 thành phố thông minh vào năm 2040.

Các diễn giả thảo luận tại diễn đàn. Ảnh: Chí Cường
Để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam sẽ tiếp tục khai thác sức mạnh của 5G nhằm triển khai Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia, tập trung vào ba trụ cột chiến lược: chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
“Việc thương mại hóa 5G tại Việt Nam gần đây đã hiện thực hóa tầm nhìn của Chính phủ về việc tận dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp, đồng thời tăng tốc triển khai Công nghiệp 4.0 trên phạm vi toàn quốc. 5G được kỳ vọng sẽ tạo nên làn sóng phát triển kinh tế - xã hội toàn diện và bền vững tiếp theo cho Việt Nam” - Chủ tịch Ericsson Việt Nam cho hay.
Các chính sách mới được đưa vào cuộc sống trong một thời gian ngắn
Phó Cục trưởng Cục Viễn thông Nguyễn Phong Nhã cho biết, về mặt chính sách, dựa trên 4 nghị quyết được đưa ra, tốc độ hoàn thiện các thể chế, giải quyết những vấn đề khó khăn của cuộc sống bằng pháp luật rất nhanh chóng. Các chính sách mới được đưa vào cuộc sống trong một thời gian ngắn, tạo nên môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch, tạo điều kiện cho các hoạt động trên môi trường số nhanh chóng, thuận lợi.
Còn theo ông Nguyễn Phong Nhã - Phó Cục trưởng Cục Viễn thông, Bộ Khoa học và Công nghệ, hiện nay, ở Việt Nam, chỉ số phát triển hạ tầng viễn thông xếp hạng thứ 67/193 nước, tăng 7 bậc so với năm 2022. Về mặt giá cả, dịch vụ viễn thông cũng rất phổ biến, bình dân, tạo điều kiện để cho tất cả người dân tiếp cận với hạ tầng và dịch vụ Internet. Có thể thấy rằng, Việt Nam đã có một chính sách mở cửa thị trường, thúc đẩy cạnh tranh tốt giữa các doanh nghiệp viễn thông để có được kết quả như ngày hôm nay.
Qua đây, cho thấy vai trò rất lớn của các doanh nghiệp nhà nước như VNPT, Tập đoàn Viettel… trong việc đi trước một bước phát triển hạ tầng, các ngành kinh tế số hay các lĩnh vực trên môi trường mạng. Các doanh nghiệp nhà nước đã không quản ngại khó khăn chung tay đầu tư vào khu vực này.
“Để đầu tư vào những khu vực khó khăn, thì chính sách mà Chính phủ Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ làm rất tốt, tham gia một cách rất hiệu quả. Từ đó, có thể nói rằng hạ tầng của Việt Nam đã sẵn sàng” - ông Nhã cho biết.
Người dân vùng sâu, vùng xa sử dụng thuận tiện các dịch vụ công
Tuy nhiên, ông Nhã cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục phát triển hơn nữa, thứ nhất, trước đây chúng ta có hạ tầng kết nối số, kết nối điện thoại, nhắn tin, kết nối truy cập Internet, rồi kết nối tốc độ cao, nhưng nhu cầu cần được cao hơn, kết nối số có thể sử dụng băng thông rộng, công nghệ xanh… tính phổ cập đã tốt rồi, nhưng cần tốt hơn nữa.
Còn kết nối Internet để thực hiện sản phẩm đến các bệnh viện, trạm y tế ở các phường, xã, thôn bản để sử dụng các dịch vụ viễn thông như khám bệnh từ xa, y tế từ xa, đào tạo từ xa, dịch vụ hành chính công để người dân ở vùng sâu, vùng xa có thể sử dụng được các dịch vụ công thuận tiện.
Tiếp đến, về lòng tin và an toàn bền vững, xây dựng hạ tầng viễn thông để có sức chống chịu, bảo vệ dữ liệu cá nhân, an toàn mạng minh bạch, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm thiểu tác động, thúc đẩy chuyển đổi số bền vững. Hạ tầng viễn thông còn có thêm trách nhiệm mới, vai trò mới trong phát triển nền kinh tế số.
Đối với doanh nghiệp thì cần hiểu rõ hơn khả năng cung cấp dịch vụ của hạ tầng viễn thông, tìm thấy được cơ hội phát triển các dịch vụ số ở trên môi trường của các doanh nghiệp viễn thông đã đầu tư. Tức là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoàn toàn có thể kết nối vào mở và phát triển các dịch vụ ứng dụng viễn thông một cách mạnh mẽ hơn nữa, để làm sao có nhiều dịch vụ viễn thông trên hạ tầng đã tốt như giao thông thông minh, đô thị thông minh, đến nông thôn thông minh...
Theo ông Nhã, về mặt tổ chức, không có thời điểm nào có những cơ hội tốt như thời điểm hiện nay. Tức là, sự kết hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp viễn thông và các trường đại học để tạo ra một hệ sinh thái từ nhu cầu thực tế cuộc sống, đặt hàng cho các trường đại học cùng nghiên cứu để đưa các sản phẩm vào cuộc sống và đào tạo thì nó không xa với thực hành và không xa với nhu cầu của thực tế thị trường.
Dưới góc nhìn của doanh nghiệp, ông Lê Xuân Sơn - Phó Tổng giám đốc VNPT - IT cho rằng, yếu tố con người đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi kinh tế số.
Việt Nam đã rất tự tin về hạ tầng, chúng ta không còn nghe câu chuyện “cá mập cắn” nhiều nữa, việc an toàn an ninh số cũng được đảm bảo. Các chính sách được ban hành ra tạo nhiều động lực khi Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia như một đầu tàu dẫn dắt công nghệ và định hướng, Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới như đường ray về thể chế để tháo gỡ, Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân là động cơ cho kinh tế tư nhân phát triển. Bốn trụ cột này ghép lại thành một cỗ máy thúc đẩy kinh tế số ở Việt Nam.
“Chúng ta không thể nhìn vào tỷ lệ Internet hay GDP tăng trưởng để định vị kinh tế số. Lúc này cần cách nhìn mới, khác với những giai đoạn trước, kinh tế số lấy dữ liệu là tài sản, khi nắm được dữ liệu tốt thì triển vọng phát triển kinh tế số rất lớn. Công nghệ chỉ là nền tảng vận hành và là công cụ, còn khi nói về thực thi thì con người là yếu tố chủ đạo nhất” - ông Sơn khẳng định.
Việt Nam hiện có 4 xu hướng chính đang chi phối
Ông Hoàng Văn Ngọc - Giám đốc Chiến lược, Tập đoàn Viettel cho biết, hiện có 4 xu hướng chính đang chi phối. Thứ nhất là AI hóa mọi thứ, đây là động lực cho nền kinh tế số. Thứ hai là xu hướng dữ liệu gồm khai thác dữ liệu, phân tích dữ liệu và sử dụng dữ liệu, xây dựng hệ sinh thái trên dữ liệu. Thứ ba là iCloud, tất cả chuyển đổi lên iCloud. Thứ tư là đổi mới sáng tạo trên các nền tảng số và hệ sinh thái dữ liệu.
Theo ông Ngọc, Việt Nam là nước phát triển rất nhanh về chuyển đổi số. Mục tiêu của chính phủ là 30% GDP đóng góp từ kinh tế số và tốc độ tăng trưởng kinh tế số ở Việt Nam cũng đang thuộc nhóm cao nhất nhì khu vực, khoảng từ 25 - 30% mỗi năm.
Việt Nam hoàn toàn có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế số, vì có Chính phủ năng động cởi mở, thúc đẩy thay đổi thể chế và khát khao chuyển đổi. Đồng thời, là quy mô lớn về thuê bao số và có hạ tầng viễn thông hiện đại. Viettel tính đến hết năm 2025 đã có 28.000 trạm 5G và vùng phủ trên dân số đạt 90%. Cùng với đó, có lực lượng lao động cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin tốt so với mặt bằng khu vực. Quan trọng hơn nữa là Việt Nam đã biến mình từ bên tiêu dùng sản phẩm số thành bên sản xuất sản phẩm số và có thể tiên tới xuất khẩu.













