Động lực để Việt Nam bứt phá thành cường quốc nông nghiệp

Nghị quyết 57 đã xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là bước đột phá cho nông nghiệp. Từ chủ trương lớn này, nhiều viện nghiên cứu và doanh nghiệp đã vào cuộc, mở ra cơ hội gia tăng giá trị và nâng vị thế nông sản Việt trên trường quốc tế.

Từ định hướng nghiên cứu đến thực tiễn doanh nghiệp

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nông nghiệp luôn được xem là một trụ cột quan trọng bảo đảm an ninh lương thực, ổn định xã hội và tạo dư địa tăng trưởng xuất khẩu. Trước yêu cầu mới của thị trường quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu, xu hướng tiêu dùng xanh và tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao, việc gắn nghiên cứu - phát triển (R&D) với chuyển đổi số trở thành đòn bẩy then chốt giúp nông nghiệp Việt Nam nâng cao giá trị gia tăng và hội nhập sâu rộng.

Để bàn luận sâu hơn về vấn đề này, ngày 15/9 Báo Tài chính - Đầu tư đã tổ chức talk show “R&D & Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Tạo giá trị gia tăng cao” nhằm mở ra những góc nhìn đa chiều từ giới nghiên cứu khoa học đến cộng đồng doanh nghiệp.

Talkshow “R&D & Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Tạo giá trị gia tăng cao" do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức ngày 15/9/2025. Ảnh: Chí Cường

Talkshow “R&D & Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Tạo giá trị gia tăng cao" do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức ngày 15/9/2025. Ảnh: Chí Cường

Theo PGS.TS. Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau Quả - Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay các viện nghiên cứu và trường đại học trong lĩnh vực nông nghiệp đang tập trung mạnh vào 4 định hướng lớn.

Thứ nhất là đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, phát triển, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó, các nhà khoa học chú trọng ứng dụng công nghệ sinh học và chuyển đổi số để tạo ra những giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao, phù hợp với điều kiện khí hậu và đáp ứng tiêu chuẩn thị trường. Đi đôi với đó là nghiên cứu quy trình canh tác thông minh, tiên tiến, giúp tiết kiệm chi phí, giảm phát thải và nâng hiệu quả sản xuất.

Thứ hai, các viện - trường tập trung xây dựng và kết nối cơ sở dữ liệu, bao gồm dữ liệu về nguồn gen cây trồng cũng như dữ liệu quản lý sản xuất. Việc này giúp tăng tính minh bạch, đồng thời tạo điều kiện để nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp tiếp cận, ứng dụng nhanh hơn trong thực tế sản xuất.

Thứ ba, quá trình xây dựng hạ tầng phục vụ nghiên cứu theo hướng số hóa cũng được đẩy mạnh. Nếu như trước đây nghiên cứu khoa học chủ yếu thực hiện thủ công, truyền thống, thì nay nhờ công nghệ số, việc nghiên cứu trở nên thuận tiện, tiết kiệm thời gian, cho phép chia sẻ và lưu trữ dữ liệu trên diện rộng.

Thứ tư, sự phối hợp giữa viện - trường với doanh nghiệp, hợp tác xã và trang trại ngày càng chặt chẽ hơn. Các bên cùng xây dựng phần mềm, chương trình chuyển đổi số phục vụ quản lý và canh tác. Nhờ đó, công tác nghiên cứu trong nông nghiệp đã có những chuyển biến rõ rệt, tạo ra hiệu quả ban đầu tích cực.

Tuy nhiên, PGS.TS. Đặng Văn Đông cũng thẳng thắn nhìn nhận, so với doanh nghiệp, tiến độ chuyển đổi số ở viện - trường vẫn chậm hơn do vướng cơ chế và nguồn lực. Ông dẫn chứng, đầu tư của Nhà nước cho R&D trong nông nghiệp còn rất thấp, dao động khoảng 0,6 - 0,8% ngân sách, trong khi Thái Lan đã đạt 1%, Trung Quốc khoảng 2% và Hàn Quốc lên đến 4%. Đây là thách thức lớn trong việc tạo ra các sản phẩm khoa học có sức cạnh tranh.

“Nếu Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị được triển khai hiệu quả, nâng tỷ lệ đầu tư lên 2 - 3%, tôi tin khoa học nông nghiệp Việt Nam sẽ có bước phát triển vượt bậc, tạo cú hích cho toàn ngành”, ông Đông nhấn mạnh.

Ở góc độ doanh nghiệp, TS. Lê Hoàng Kiệt, Giám đốc Sản phẩm mới và Giải pháp Dịch vụ Nông nghiệp, Công ty cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC) cho biết, chuyển đổi số đã được áp dụng toàn diện, từ quản trị, sản xuất, kinh doanh cho đến dịch vụ đồng hành cùng nông dân. Trong quản trị, doanh nghiệp đã số hóa thông tin, quy trình và chuẩn hóa các tiêu chuẩn kỹ thuật, xây dựng hệ thống quản lý dữ liệu dựa trên nền tảng ERP, e-Office, e-Learning và báo cáo BI, tạo ra nền tảng vận hành minh bạch, khoa học.

TS. Lê Hoàng Kiệt, Giám đốc Sản phẩm mới và Giải pháp Dịch vụ Nông nghiệp, Công ty cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC). Ảnh: Chí Cường

TS. Lê Hoàng Kiệt, Giám đốc Sản phẩm mới và Giải pháp Dịch vụ Nông nghiệp, Công ty cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC). Ảnh: Chí Cường

Ở lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, PVCFC hướng tới mô hình nhà máy thông minh, tự động hóa gần như toàn bộ công đoạn, đồng thời lắp đặt hệ thống cảm biến để giám sát biến động, phát hiện sự cố kỹ thuật và thực hiện bảo dưỡng theo tình trạng. Doanh nghiệp còn đưa vào công nghệ tham quan thực tế ảo, giúp người dân và đối tác có thể trực tiếp tìm hiểu quy trình sản xuất qua nền tảng số, từ đó tăng cường sự minh bạch và gắn kết thị trường.

Đặc biệt, với vai trò đồng hành cùng nông dân, PVCFC đã số hóa dữ liệu đồng ruộng thành bản đồ dinh dưỡng, thổ nhưỡng; chuyển đổi quy trình kỹ thuật canh tác thành hình ảnh, video để bà con dễ dàng tiếp cận; phát triển phần mềm AI chẩn đoán sâu bệnh; đồng thời xây dựng các “trợ lý ảo” cung cấp thông tin mùa vụ, thị trường nông nghiệp, đưa tiến bộ khoa học đến gần hơn với người trồng trọt.

Nhờ triển khai đồng bộ, PVCFC đạt được nhiều kết quả nổi bật: vận hành nhà máy ở mức 115% công suất thiết kế, giảm 10% tiêu hao năng lượng, đồng thời được xếp trong Top 10 doanh nghiệp có mức tiêu hao năng lượng thấp nhất thế giới theo đánh giá của tổ chức châu Âu năm 2023.

R&D: Tư duy ngược và giá trị chuỗi nông sản

Phân bón Cà Mau đang định vị R&D như trụ cột chiến lược để tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bằng việc xây dựng Trung tâm R&D tại Long An - Tây Ninh với diện tích trên 20ha, trang bị phòng thí nghiệm hiện đại và quy tụ hơn 40 chuyên gia, doanh nghiệp khẳng định quyết tâm đầu tư bài bản cho nghiên cứu. Quan trọng hơn, hướng đi được lựa chọn là “tư duy nghiên cứu ngược”, nghĩa là xuất phát từ nhu cầu và giá trị mong muốn của nông sản để đặt bài toán cho sản phẩm, thay vì chỉ dừng ở việc cải tiến một sản phẩm đơn lẻ.

Nhờ cách tiếp cận này, sản phẩm không chỉ là cải tiến nhỏ, mà gắn liền với cả chuỗi giá trị nông sản. Một loạt sản phẩm đã được nghiên cứu theo hướng giảm phát thải khí nhà kính như đạm tiết kiệm, đạm vi sinh, công nghệ sản xuất NPK tiết kiệm lân, mô hình canh tác lúa giảm phát thải cùng IRRI… Mục tiêu là phát triển phân bón xanh, nông nghiệp tuần hoàn, tiến tới áp dụng rộng rãi IoT, AI và Big Data trong sản xuất.

Từ phía viện nghiên cứu, PGS.TS. Đặng Văn Đông dẫn chứng một số kết quả điển hình như giống nhãn Ánh Vàng do viện nghiên cứu chọn tạo đã khẳng định chất lượng vượt trội, chín muộn, hàm lượng dinh dưỡng cao và hiện được trồng rộng rãi ở Sơn La.

PGS.TS. Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau Quả - Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Chí Cường

PGS.TS. Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau Quả - Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Chí Cường

Ngoài ra, viện cũng đã làm chủ công nghệ sản xuất hoa lan hồ điệp, loại cây khó tính vốn phải nhập khẩu trước đây. Nhờ áp dụng cảm biến và AI, nay có thể điều khiển từ xa toàn bộ quy trình, điều tiết ra hoa đúng dịp Tết, bảo đảm chất lượng đồng đều, gắn kết trực tiếp với thị trường tiêu thụ. Những thành công này minh chứng cho hiệu quả của việc kết hợp nghiên cứu khoa học với chuyển đổi số.

Dù vậy, các chuyên gia đều nhìn nhận rằng quá trình đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn vẫn gặp nhiều khó khăn. Hạ tầng số tại viện nghiên cứu chưa được đầu tư đồng bộ; nguồn lực cho R&D còn thấp; năng lực tiếp cận công nghệ của nông dân hạn chế.

Ở nhiều vùng, người dân thậm chí chưa khai thác hết chức năng của điện thoại thông minh, khiến việc tiếp nhận AI hay chuyển đổi số còn khó khăn, ngay cả việc thu thập dữ liệu từ hợp tác xã cũng mất nhiều thời gian và công sức. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải tăng cường đầu tư về hạ tầng và nguồn lực, đồng thời đẩy mạnh đào tạo, hướng dẫn trực tiếp để nông dân có thể tiếp cận, ứng dụng hiệu quả.

Có thể thấy, chủ trương đã rõ ràng, song từ nghị quyết đến văn bản hướng dẫn cụ thể thường kéo dài khiến quá trình áp dụng còn chậm. Nhiều viện nghiên cứu có sẵn nguồn lực về đất đai, nhân lực, trí tuệ và bản quyền giống, nhưng khi triển khai liên doanh, liên kết vẫn phải mất nhiều thời gian hoàn tất thủ tục xin phép. Để khắc phục, cần sớm cụ thể hóa các nghị quyết, đồng thời thúc đẩy sự phối hợp chặt chẽ giữa viện - trường, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân, tạo thành một hệ sinh thái gắn kết, bổ trợ cho nhau.

TS. Lê Hoàng Kiệt đề xuất, để Nghị quyết 57 thực sự phát huy hiệu quả, cần hội đủ 4 “cần” và một “đủ”. Bốn “cần” gồm: nguồn dữ liệu mở và thống nhất để các bên cùng khai thác; hạ tầng chuyển đổi số đồng bộ trên cả nước; hợp tác công - tư hiệu quả giữa doanh nghiệp và viện - trường; cơ chế khuyến khích đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn.

Yếu tố “đủ” là sự thay đổi tư duy, nếu không đổi mới tư duy, việc áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại. Cả nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân đều phải chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy sang kinh tế nông nghiệp, coi giá trị chuỗi là thước đo quan trọng.

Các vị chuyên gia tin rằng trong 10 - 20 năm tới, khoa học nông nghiệp Việt Nam sẽ bắt kịp thế giới, thậm chí vượt trội ở một số lĩnh vực đặc thù như nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn gắn với văn hóa và tâm sinh thái Việt Nam.

TS. Lê Hoàng Kiệt cũng khẳng định, dư địa tăng giá trị nông sản Việt Nam còn rất lớn. Là nước nhiệt đới, đa dạng cây trồng, Việt Nam có lợi thế tự nhiên để phát triển. Song, cũng vì chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu, việc chuyển đổi là bắt buộc. Nếu nắm bắt xu thế, Việt Nam hoàn toàn có thể đưa nông sản ngang tầm các nước tiên tiến, dựa trên lợi thế tự nhiên, sự am hiểu thị trường và mạng lưới nông dân rộng khắp.

Linh Nguyễn

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/dong-luc-de-viet-nam-but-pha-thanh-cuong-quoc-nong-nghiep-d385479.html