Động lực mới cho quan hệ hợp tác toàn diện Việt-Nga
Nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Nga Vladimir Putin trong hai ngày 19 và 20/6, Đại sứ Việt Nam tại Liên bang Nga Đặng Minh Khôi trả lời phỏng vấn báo chí về mối quan hệ hiện nay giữa hai nước, cũng như các biện pháp để thúc đẩy hợp tác song phương.
Phóng viên: Xin Đại sứ cho biết tầm quan trọng và ý nghĩa chuyến thăm Việt Nam lần này của Tổng thống Nga Vladimir Putin đối với mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt-Nga cũng như trong việc hiện thực hóa Tuyên bố chung về Tầm nhìn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai quốc gia đến năm 2030?
Đại sứ Đặng Minh Khôi: Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Liên bang Nga V.Putin sẽ thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 19 đến 20/6. Chuyến thăm có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt-Nga trong tất cả các lĩnh vực và nâng tầm lên trong tình hình mới, đặc biệt trong bối cảnh hai nước đang nỗ lực hiện thực hóa Tuyên bố chung về Tầm nhìn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện đến năm 2030.
Chuyến thăm này không chỉ là một sự kiện ngoại giao quan trọng, mà còn thể hiện sự coi trọng và cam kết của Nga đối với mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam. Đồng thời, chuyến thăm cũng thể hiện Việt Nam tích cực thực hiện đường lối đối ngoại theo tinh thần độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, đóng góp vào hòa bình, ổn định trên thế giới. Điều này góp phần củng cố tình hữu nghị và sự tin cậy lẫn nhau, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện của quan hệ hai nước trong tương lai.
Chuyến thăm này không chỉ là một sự kiện ngoại giao quan trọng, mà còn thể hiện sự coi trọng và cam kết của Nga đối với mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam. Đồng thời, chuyến thăm cũng thể hiện Việt Nam tích cực thực hiện đường lối đối ngoại theo tinh thần độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, đóng góp vào hòa bình, ổn định trên thế giới.
Trong khuôn khổ chuyến thăm, lãnh đạo hai nước sẽ thảo luận và định hướng cho quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện đến năm 2030, xác định rõ hơn các lĩnh vực hợp tác trọng điểm, từ kinh tế, thương mại, quốc phòng an ninh, năng lượng, khoa học công nghệ đến giáo dục, văn hóa ngoại giao nhân dân. Các mục tiêu dài hạn và kế hoạch hành động cụ thể sẽ được đề ra, nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững và hiệu quả của quan hệ song phương trong tương lai.
Ngoài ra, chuyến thăm này còn là cơ hội để cả hai bên ký kết và triển khai các thỏa thuận hợp tác mới, tạo động lực thúc đẩy quan hệ song phương. Những thỏa thuận này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn củng cố sự gắn kết về mặt chính trị và chiến lược giữa hai nước. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều biến động, hợp tác chặt chẽ giữa Việt Nam và Nga càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Việc Tổng thống Putin thăm Việt Nam còn gửi đi một thông điệp mạnh mẽ về sự tôn trọng lẫn nhau giữa hai quốc gia. Đây là một biểu hiện rõ ràng của tình hữu nghị và sự đoàn kết, qua đó góp phần nâng cao vị thế của cả hai nước trên trường quốc tế, vì lợi ích chung của cả hai dân tộc và vì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Đây cũng là dịp để hai nước trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm, đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Tôi tin tưởng rằng, chuyến thăm lần này của Tổng thống V.Putin sẽ là một dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và Liên bang Nga, đưa quan hệ song phương vững bước trên con đường rộng mở hướng tới tương lai tốt đẹp của tình hữu nghị gắn bó thủy chung và Đối tác chiến lược toàn diện trong thời kỳ mới.
Phóng viên: Năm 2024 đánh dấu 30 năm hai nước ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam-Nga, xin Đại sứ đánh giá những điểm nhấn trong quan hệ giữa hai nước thời gian qua?
Đại sứ Đặng Minh Khôi: Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 30/1/1950 đến nay, mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô (trước đây), Nga (hiện nay) luôn vững bền theo năm tháng và ngày càng phát triển sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực. Mặc dù có những thay đổi về thể chế chính trị, song hai nước luôn coi nhau là đối tác, bạn bè quan trọng và hàng đầu.
Quan hệ Việt Nam-Nga ngày nay kế thừa quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Liên Xô trong quá khứ. Sau một thời gian bị gián đoạn trước những biến động tại Liên Xô và Nga đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, bằng quyết tâm và nỗ lực của lãnh đạo và nhân dân hai nước, quan hệ Việt-Nga đã có những bước tiến mạnh mẽ, tiếp nối xứng đáng truyền thống quan hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc.
Mối quan hệ giữa hai nước đã được xây dựng và củng cố qua nhiều thập kỷ, dựa trên nền tảng của sự tin cậy, hợp tác bền vững và sự tôn trọng lẫn nhau. Nhằm tạo khuôn khổ pháp lý mới cho quan hệ giữa Việt Nam và Nga, năm 1994, hai nước đã ký kết Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị, trong đó khẳng định quan hệ hữu nghị giữa hai nước được xây dựng trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập và chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi dựa trên luật pháp quốc tế.
Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 30/1/1950 đến nay, mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô (trước đây), Nga (hiện nay) luôn vững bền theo năm tháng và ngày càng phát triển sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực. Mặc dù có những thay đổi về thể chế chính trị, song hai nước luôn coi nhau là đối tác, bạn bè quan trọng và hàng đầu.
Nhìn lại 30 năm qua, chúng ta có thể tự hào về những thành tựu đã đạt được khi quan hệ song phương ngày càng phát triển toàn diện, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việt Nam và Nga đã từng bước đưa quan hệ song phương lên các cấp từ Đối tác chiến lược đến Đối tác chiến lược toàn diện. Chúng ta có thể tự hào về những thành tựu đã đạt được khi quan hệ song phương ngày càng phát triển toàn diện, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Quan hệ chính trị có độ tin cậy cao, thông qua các hình thức và cơ chế hợp tác chính trị đa dạng, như trao đổi đoàn các cấp, đặc biệt cấp cao thường xuyên, giúp lãnh đạo hai nước trao đổi thông tin và kịp thời chỉ đạo phát triển quan hệ song phương. Hai bên đã thiết lập và triển khai hiệu quả nhiều cơ chế như họp Ủy ban liên chính phủ, Đối thoại chiến lược, Tham vấn chính trị thường niên, góp phần tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, tạo cơ sở thúc đẩy hợp tác mọi mặt giữa hai nước. Việt Nam và Nga luôn ủng hộ và hợp tác chặt chẽ trong các tổ chức quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ARF...
Hợp tác kinh tế-thương mại phát triển tích cực. Có những giai đoạn kim ngạch thương mại song phương tăng từ 10% đến 15%/ năm, là kết quả của việc ký kết Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á-Âu. Dù chịu tác động từ tình hình bất ổn thế giới và khu vực, kim ngạch thương mại hai nước năm 2023 vẫn đạt hơn 3,6 tỷ USD.
Về đầu tư, Nga đã có gần 200 dự án tại Việt Nam, với tổng vốn gần 1 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam tại Nga tăng mạnh, từ chỗ chỉ khoảng 100 triệu USD vào đầu những năm 2000 đã lên mức 3 tỷ USD vào năm 2023.
Điểm nhấn quan trọng trong hợp tác kinh tế giữa hai nước là sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực năng lượng, dầu khí. Hai bên đã hợp tác tốt và hiệu quả trong tìm kiếm, thăm dò dầu khí không chỉ ở thềm lục địa Việt Nam mà cả ở lãnh thổ Liên bang Nga với các dự án lớn. Ngoài liên doanh Vietsovpetro là lá cờ đầu trong hợp tác dầu khí, hai bên đã có thêm những liên doanh khác đang hoạt động tích cực ở cả hai nước.
Hợp tác song phương trong các lĩnh vực như khoa học công nghệ, văn hóa, giáo dục, du lịch, địa phương... ngày càng được mở rộng, trong đó hợp tác khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo giữa hai nước được đẩy mạnh và nâng lên tầm chiến lược.
Về đầu tư, Nga đã có gần 200 dự án tại Việt Nam, với tổng vốn gần 1 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam tại Nga tăng mạnh, từ chỗ chỉ khoảng 100 triệu USD vào đầu những năm 2000 đã lên mức 3 tỷ USD vào năm 2023.
Nga đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho nhiều sinh viên Việt Nam nhờ vào các chương trình học bổng và đào tạo chất lượng cao với số lượng hàng nghìn sinh viên theo học tại Nga mỗi năm, trong đó có các ngành công nghiệp chủ chốt như năng lượng, dầu khí, khoa học cơ bản.
Hàng chục nghìn cán bộ khoa học, kỹ sư và công nhân kỹ thuật được đào tạo tại Liên bang Nga đã có những đóng góp tích cực, hiệu quả cho nền kinh tế Việt Nam và là nhân tố tạo cầu nối hữu nghị cho nhân dân hai nước.
Các hoạt động giao lưu văn hóa được tổ chức thường xuyên cũng góp phần tăng thêm sự hiểu biết giữa hai dân tộc và tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác trong những lĩnh vực khác. Liên bang Nga cũng luôn duy trì là một trong những thị trường khách du lịch hàng đầu của Việt Nam.
Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh và kỹ thuật quân sự giữa hai nước là lĩnh vực truyền thống và không ngừng phát triển trên cơ sở đối tác tin cậy, phù hợp với luật pháp quốc tế, góp phần vào việc duy trì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Phóng viên: Theo Đại sứ, yếu tố văn hóa có ý nghĩa thế nào đối với tình hữu nghị Việt-Nga? Hợp tác văn hóa đã và đang được thúc đẩy thế nào trong dòng chảy hợp tác chung giữa hai nước, thưa Đại sứ?
Đại sứ Đặng Minh Khôi: Yếu tố văn hóa đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, củng cố và làm bền chặt hơn tình hữu nghị giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Văn hóa không chỉ phản ánh những giá trị, truyền thống và bản sắc của mỗi dân tộc mà còn là cầu nối giúp tăng cường sự hiểu biết, chia sẻ những giá trị chung và tôn trọng sự khác biệt.
Trong suốt chiều dài lịch sử hợp tác, các hoạt động giao lưu văn hóa đã đóng góp không nhỏ vào việc tạo dựng mối quan hệ bền chặt và gắn kết giữa nhân dân hai nước. Văn hóa giúp chúng ta hiểu rõ hơn về phong tục, tập quán và lối sống của nhau. Thông qua các hoạt động như lễ hội văn hóa, triển lãm và các hoạt động nghệ thuật, âm nhạc, nhân dân hai nước có cơ hội tiếp cận, khám phá và trân trọng những di sản văn hóa quý báu của nhau. Điều này không chỉ làm sâu sắc thêm tình hữu nghị giữa hai dân tộc, mà còn góp phần xây dựng một nền tảng vững chắc cho mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Nga.
Trong những năm qua, hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Nga đã được thúc đẩy mạnh mẽ. Nhiều chương trình giao lưu văn hóa đã được tổ chức thường xuyên, tạo điều kiện cho các nghệ sĩ, nhà nghiên cứu và người dân hai nước gặp gỡ, trao đổi và học hỏi lẫn nhau.
Các tuần lễ văn hóa Nga tại Việt Nam và Việt Nam tại Nga đã trở thành những sự kiện thường niên, thu hút đông đảo sự quan tâm và tham gia của công chúng. Bên cạnh đó, hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy giao lưu văn hóa.
Nhiều sinh viên Việt Nam đã và đang học tập tại Nga, đồng thời các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên giữa hai nước cũng được đẩy mạnh. Những thế hệ trẻ này không chỉ là những đại sứ văn hóa, mang theo những giá trị văn hóa của đất nước mình đến với bạn bè quốc tế, mà còn là những cầu nối quan trọng trong việc duy trì và phát triển tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
Ngoài ra, du lịch cũng là lĩnh vực hợp tác văn hóa đầy tiềm năng. Ngày càng nhiều du khách Nga đến Việt Nam và ngược lại, không chỉ để khám phá cảnh đẹp thiên nhiên mà còn để trải nghiệm và hiểu rõ hơn về văn hóa, con người của mỗi nước. Các tour du lịch văn hóa, lịch sử ngày càng được ưa chuộng, góp phần quan trọng vào việc tăng cường sự hiểu biết và gắn kết giữa hai dân tộc.
Phóng viên: Nga là thị trường với sức mua lớn thứ tư thế giới. Thời gian qua, dù đứng trước không ít khó khăn, song với quyết tâm và nỗ lực của doanh nghiệp hai nước, kim ngạch thương mại Việt-Nga năm 2023 vẫn đạt con số ấn tượng. Đại sứ đánh giá như thế nào về tiềm năng hợp tác kinh tế giữa hai nước thời gian tới?
Đại sứ Đặng Minh Khôi: Năm 2012, Việt Nam và Liên bang Nga đã xác lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Năm 2015, Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á-Âu ký Hiệp định Thương mại tự do (VN-EAEU FTA), tạo thuận lợi cho phát triển hợp tác kinh tế-thương mại, đầu tư giữa hai nước. Sau khi Hiệp định Việt Nam-EAEU FTA có hiệu lực từ tháng 10/2016, thương mại song phương Việt Nam-Nga phát triển nhanh, đạt kim ngạch 5,5 tỷ USD vào năm 2021, tăng 90% so năm 2016.
Tuy nhiên, từ khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra, tình hình chính trị-kinh tế trên thế giới diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới hợp tác kinh tế-thương mại giữa hai nước. Cùng nỗ lực chung của các cơ quan chức năng và của cộng đồng doanh nghiệp hai nước, những khó khăn về vận tải, thanh toán… từng bước được tháo gỡ, hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga có sự hồi phục rõ rệt.
Năm 2023, kim ngạch thương mại hai chiều tăng 3,6% so năm 2022. Trong 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước đạt xấp xỉ 2 tỷ USD, tăng 52% so cùng kỳ năm 2023.
Nhiều nhóm hàng thế mạnh của Việt Nam như nông sản, thủy sản, may mặc, thiết bị máy móc tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao sang thị trường Nga. Ngược lại, Việt Nam cũng tăng nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu như than đá, phân bón, hóa chất, thực phẩm… phục vụ sản xuất, kinh doanh đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
Về đầu tư, tính đến hết tháng 5/2024, Liên bang Nga có 186 dự án tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 1 tỷ USD; trong khi đó Việt Nam có khoảng 25 dự án đầu tư tại Nga với tổng vốn đầu tư khoảng 3 tỷ USD. Hợp tác trong lĩnh vực truyền thống là dầu khí tiếp tục được duy trì và củng cố, với hai doanh nghiệp tiêu biểu là Vietsovpetro và Rusvietpetro tiếp tục hoạt động có hiệu quả. Hợp tác đầu tư trong các lĩnh vực khác như chế biến thực phẩm, sản xuất-lắp ráp ô-tô… cũng từng bước phát triển.
Từ tháng 8/2023, công dân Việt Nam đã có thể xin visa điện tử vào Nga với quy trình đơn giản, thuận tiện; trong khi đó từ 15/8/2023, du khách Nga có thể lưu trú tại Việt Nam đến 45 ngày miễn visa. Đây là các điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hai nước hồi phục và thúc đẩy hợp tác du lịch-thương mại trong thời gian tới.
Trong thời gian qua, Việt Nam và Nga cũng từng bước nối lại hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác vốn bị gián đoạn do dịch Covid-19. Từ đầu năm 2024, hai bên đã mở lại tuyến bay thẳng giữa Moskva và Thành phố Hồ Chí Minh với tần suất 3 chuyến/tuần. Hiện nay, Nga và Việt Nam đã nới lỏng các quy định về visa cho công dân của nhau.
Từ tháng 8/2023, công dân Việt Nam đã có thể xin visa điện tử vào Nga với quy trình đơn giản, thuận tiện; trong khi đó từ 15/8/2023, du khách Nga có thể lưu trú tại Việt Nam đến 45 ngày miễn visa. Đây là các điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hai nước hồi phục và thúc đẩy hợp tác du lịch-thương mại trong thời gian tới.
Trong những năm gần đây, dù gặp rất nhiều khó khăn do các lệnh trừng phạt, cấm vận của các nước phương Tây, Liên bang Nga tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng GDP khá cao và trở thành nền kinh tế đứng thứ tư thế giới theo sức mua tương đương. Trong bối cảnh đó, ngoài các lĩnh vực hợp tác truyền thống, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội để thúc đẩy hợp tác các lĩnh vực mà Nga có thế mạnh, như công nghiệp nền tảng, công nghệ cao, công nghệ thông tin, thương mại điện tử, dược phẩm…
Chúng tôi đề nghị các doanh nghiệp hai nước tăng cường hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại, tham gia các hội chợ triển lãm chuyên ngành tại Nga và Việt Nam, tìm hiểu thị trường, tìm khách hàng, thiết lập quan hệ kinh doanh-đầu tư.
Phóng viên: Qua nhiều thế hệ, người dân Việt Nam và người dân Liên Xô (trước đây), Nga (hiện nay) luôn dành cho nhau những tình cảm đặc biệt, hiếm có. Giao lưu nhân dân, vì vậy, cần phải được thúc đẩy như thế nào để “giữ lửa” tình hữu nghị Việt-Nga?
Đại sứ Đặng Minh Khôi: Quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô (trước đây), Nga (ngày nay) luôn không ngừng được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước củng cố và vun đắp. Tình cảm đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Liên Xô (trước đây), Nga (ngày nay) trở thành một biểu tượng của sự đoàn kết và tình hữu nghị quốc tế.
Qua nhiều thế hệ, chúng ta đã chia sẻ với nhau không chỉ những thách thức và khó khăn, mà còn cả những khoảnh khắc vinh quang và hạnh phúc, thấm đượm tình cảm sâu sắc giữa nhân dân hai nước. Nhân dân Việt Nam luôn luôn ghi nhớ và biết ơn sự giúp đỡ quý báu, chí tình của nhân dân Liên Xô và Liên bang Nga trong cả giai đoạn kháng chiến và xây dựng đất nước sau này.
Để “giữ lửa” tình hữu nghị Việt-Nga, việc thúc đẩy giao lưu nhân dân là vô cùng cần thiết. Các hoạt động giao lưu nhân dân không chỉ giúp duy trì và phát triển mối quan hệ hữu nghị, mà còn tạo ra những cơ hội mới để nhân dân hai nước hiểu và gắn bó hơn với nhau.
Trước hết, cần đẩy mạnh các chương trình trao đổi và giao lưu văn hóa. Các hoạt động giao lưu giữa các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ hai nước, cần được tổ chức thường xuyên và quy mô hơn, tạo ra không gian để các thế hệ người dân hai nước gặp gỡ, giao lưu, học hỏi và hiểu biết lẫn nhau, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tình hữu nghị Việt-Nga, góp phần củng cố và làm sâu sắc hơn tình hữu nghị giữa hai quốc gia, hai dân tộc.
Về hợp tác giáo dục-đào tạo, trước đây, Liên Xô đã giúp Việt Nam đào tạo gần 40 nghìn cán bộ và chuyên gia giỏi thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Hiện nay, Nga tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực. Từ năm 2019, Nga đã tăng số học bổng cho Việt Nam lên khoảng 1.000 suất/năm. Hiện có khoảng hơn 5.000 sinh viên Việt Nam du học tại Nga.
Bên cạnh đó, việc tổ chức các hoạt động giao lưu nhân dân thông qua các hội thảo, diễn đàn, và các chương trình hợp tác xã hội cũng rất cần thiết. Những hoạt động này sẽ tạo ra không gian để người dân hai nước gặp gỡ, trao đổi ý tưởng, và hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau, từ đó làm sâu sắc quan hệ hữu nghị truyền thống Việt-Nga.
Ngoài ra, tôi cho rằng, công nghệ và mạng xã hội cũng có thể được tận dụng để thúc đẩy giao lưu nhân dân. Việc phát triển các nền tảng trực tuyến để người dân hai nước có thể kết nối, chia sẻ và học hỏi lẫn nhau sẽ mở ra những cơ hội mới cho sự giao lưu và hợp tác.
Chúng ta cần tiếp tục nuôi dưỡng và phát triển mối tình hữu nghị đặc biệt này bằng tất cả tâm huyết và nỗ lực. Với sự quan tâm, đồng sức đồng lòng của các cấp, các ngành hai nước, tôi tin rằng tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và Nga sẽ ngày càng bền chặt và phát triển mạnh mẽ, trở thành nền tảng vững chắc cho việc phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt Việt-Nga lên một tầm cao mới.
Phóng viên: Theo Đại sứ, hai nước cần làm gì để phát huy và thúc đẩy hợp tác trong những lĩnh vực như giáo dục-đào tạo và khoa học-công nghệ?
Đại sứ Đặng Minh Khôi: Trước tiên, cần khẳng định hợp tác khoa học-công nghệ và giáo dục-đào tạo giữa hai nước thời gian qua là rất hiệu quả, ngày càng đa dạng, thực chất và là những cơ sở quan trọng của quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
Về hợp tác khoa học-công nghệ, có thể thấy rằng lĩnh vực này không chỉ góp phần phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, mà còn tạo điều kiện cải thiện năng lực và hiệu quả hoạt động của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, hình thành mạng lưới quan hệ hợp tác đối tác tin cậy giữa các cơ quan khoa học và công nghệ hai nước.
Để phát triển hợp tác khoa học-công nghệ với Liên bang Nga thời gian tới, hai bên cần quan tâm tâm triển khai các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu chung trong các lĩnh vực Nga có thế mạnh, Việt Nam có nhu cầu như: khoa học sự sống, công nghệ năng lượng, công nghệ vũ trụ, sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường; nghiên cứu cơ bản, Fintech, trí tuệ nhân tạo, lĩnh vực y sinh…
Nga rất coi trọng phát triển khoa học-công nghệ, ban hành nhiều văn bản chiến lược và chính sách ưu tiên để hướng tới đạt được chủ quyền về công nghệ và đi đầu về công nghệ trong một số lĩnh vực đến năm 2030, trong đó ưu tiên xây dựng mô hình hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển khoa học.
Để phát triển hợp tác khoa học-công nghệ với Liên bang Nga thời gian tới, hai bên cần quan tâm tâm triển khai các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu chung trong các lĩnh vực Nga có thế mạnh, Việt Nam có nhu cầu như: khoa học sự sống, công nghệ năng lượng, công nghệ vũ trụ, sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường; nghiên cứu cơ bản, Fintech, trí tuệ nhân tạo, lĩnh vực y sinh…
Hai nước cần có chính sách và dành nguồn lực tài chính thích đáng đầu tư cho các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu chung; đồng thời, tăng cường trao đổi đoàn, trao đổi cán bộ khoa học, kết nối mạng lưới hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu, đào tạo…
Về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, đây là một trong những nội dung quan trọng của Tuyên bố chung về tầm nhìn đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Liên bang Nga đến năm 2030. Để phát huy hơn nữa hiệu quả hợp tác trong lĩnh vực này, hai nước đang khẩn trương hoàn thiện cơ sở pháp lý, sớm ký mới Hiệp định về hợp tác giáo dục thay thế Hiệp định ký năm 2005, Hiệp định về thành lập và hoạt động của Trung tâm Pushkin; gia hạn Hiệp định đào tạo công dân Việt Nam tại Nga đến năm 2030…
Đối với việc đào tạo nguồn nhân lực tại Liên bang Nga diện Hiệp định, chúng ta cần ưu tiên cử sinh viên đi đào tạo các khối ngành kỹ thuật, khoa học ứng dụng, công nghệ tài chính; phối hợp giữa các bộ liên quan để tăng số lượng học bổng cho các ngành y và các ngành đào tạo trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
Hằng năm, Chính phủ Nga cấp 1.000 suất học bổng cho công dân Việt Nam sang học tập tại Nga. Để thu hút công dân Việt Nam sang học tập tại Nga, cần thúc đẩy công tác tuyên truyền về nền giáo dục và các trường đại học Nga tại các địa phương ở Việt Nam, mở rộng đối tượng tuyển sinh nhằm tăng cơ hội nhận học bổng cho học sinh Việt Nam trên toàn quốc.
Về phía Nga, nên có chính sách tạo điều kiện để sinh viên Việt Nam sau khi tốt nghiệp có thời gian tìm kiếm cơ hội việc làm ngay tại Nga để bù đắp tình trạng thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như thiếu hụt lao động ngày càng tăng.
Tôi hy vọng rằng, với nền tảng quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam sắp tới của Tổng thống Nga V.Putin sẽ mang đến một động lực mới để hai nước chúng ta ngày càng hợp tác chặt chẽ và hiệu quả hơn, cùng hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.