Động lực nào thúc đẩy 'xanh hóa' chuỗi cung ứng dệt may, da giày?
Ngành dệt may, da giày Việt Nam đang đứng trước 'sức ép' từ xu thế 'xanh hóa', điều này đòi hỏi doanh nghiệp buộc phải chuyển đổi xanh nếu không muốn bị loại khỏi 'cuộc chơi' thương mại và đầu tư toàn cầu.
Chia sẻ tại Tọa đàm “Động lực “Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may, da giày” do Tạp chí Công Thương tổ chức, TS. Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương, Bộ Công Thương cho biết, ngành dệt may, da giày Việt Nam hiện nay đã tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu với phần lớn các sản phẩm đã được xuất khẩu đến hơn 100 thị trường lớn nhỏ.
Trước những “sức ép” từ việc nhiều nhãn hàng cũng như các thị trường nhập khẩu chủ lực đòi hỏi khắt khe hơn với các sản phẩm, đến các cam kết của Việt Nam với quốc tế trong giảm phát thải và việc tăng chi phí sản xuất trong nước, chuyển đổi xanh là yêu cầu bắt buộc đối với mọi doanh nghiệp, mọi cơ chế quản lý, mọi cơ chế chính sách, các hoạt động trong ngành nếu muốn tham gia sâu vào “sân chơi” toàn cầu bởi đây là một trong những ngành tạo ra ô nhiễm môi trường lớn hơn so với các ngành khác.
"Xanh hóa" chuỗi sản xuất giúp doanh nghiệp tiết kiệm được nhiều chi phí
Là doanh nghiệp tiên phong trong “xanh hóa” cũng như phát triển bền vững khi tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu, bà Nguyễn Thị Minh Hải - Trưởng ban Phát triển bền vững Công ty Cổ phần - Tổng công ty may Bắc Giang (LGG) cho biết, xu hướng “xanh hóa” đang trở nên tất yếu đối với tất cả các khâu cũng như các doanh nghiệp khi tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may, trong đó có LGG.
Tổng công ty may Bắc Giang cũng xác định sẽ có những thách thức, khó khăn nhưng cũng coi đây là cơ hội để tiếp cận với chuỗi sản xuất minh bạch hơn, tiếp cận với các phương thức sản xuất tiên tiến, công nghệ tốt hơn, sử dụng các nguồn năng lượng sạch, đảm bảo cho phát triển bền vững của doanh nghiệp trong tương lai.
Chính vì vậy, ngay từ khi xây dựng nhà máy cũng như dự án mới LGG đã tập trung xây dựng hệ thống năng lượng mặt trời, sử dụng nguồn năng lượng tái tạo. Tính đến thời điểm hiện tại, số công suất nguồn điện năng lượng mặt trời cung cấp thì có thể đáp ứng vào những tháng cao điểm khoảng 40% lượng điện tiêu thụ của toàn nhà máy.
Bên cạnh đó, LGG cũng áp dụng những chính sách về chuyển đổi năng lượng như chuyển toàn bộ hệ thống đèn huỳnh quang sang hệ thống đèn LED; chuyển từ sử dụng lò hơi đốt than sang sử dụng lò hơi đốt nhiên liệu sạch biomass;… đồng thời đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải của nhà máy đảm bảo đầu ra có thể tái sử dụng cho việc trồng cây hoặc nuôi cá.
LGG cũng chú trọng việc đánh giá những chứng chỉ về tái chế toàn cầu, chứng chỉ về sử dụng nguyên liệu tái chế hoặc chứng chỉ lông vũ có trách nhiệm và rất nhiều chứng về trách nhiệm xã hội khác mà khách hàng yêu cầu trong quá trình tham gia vào chuỗi cung ứng và hàng loạt những hoạt động về nâng cao nhận thức cho người lao động.
“Khi tham gia vào chuỗi cung ứng xanh, thực hiện những hoạt động phát triển xanh, phát triển bền vững, doanh nghiệp đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí, bên cạnh đó, cũng nâng cao được độ nhận diện của doanh nghiệp đối với khách hàng, vị thế của doanh nghiệp cũng được cải thiện, đồng thời năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác cũng được khách hàng đánh gia cao hơn.
Không chỉ có vậy, trong qua trình thực hiện các hoạt động xanh và bảo vệ môi trường, doanh nghiệp cũng tạo dựng được lòng tin với chính những người lao động tại doanh nghiệp và cộng đồng địa phương xung quanh.” - bà Hải nhấn mạnh.
Đồng tình với quan điểm này, ông Lê Xuân Thịnh - Giám đốc Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) cũng cho biết thêm, trong quá trình Trung tâm đi tư vấn, đặc biệt là tư vấn cho các doanh nghiệp dệt may đã nhận thấy rằng, có rất nhiều cơ hội để doanh nghiệp có thể thực hiện chuyển đổi xanh mà không đòi hỏi chi phí đầu tư quá lớn.
Bên cạnh các giải pháp sử dụng năng lượng một cách tiết kiệm, hiệu quả, doanh nghiệp còn có thể triển khai các giải pháp khác như tạo ra các sản phẩm phụ khác từ chất thải dệt may thông thường để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, nếu không thể tận dụng có thể làm nhiên liệu đốt cho lò hơi để phát điện, đồng thời giảm quá trình phát thải. Hoặc ngay từ khâu thiết kế sản phẩm cũng có thể thiết kế ra các sản phẩm ít sử dụng nhựa hoặc thay thế nhựa trong bao bì, đóng gói bằng giấy,…
Vượt qua thách thức để tận dụng cơ hội từ "xanh hóa" chuỗi cung ứng
Ông Lê Xuân Thịnh cũng chỉ ra, trong quá trình chuyển đổi xanh, doanh nghiệp cũng gặp nhiều thuận lợi, cụ thể (i) xu thế quốc tế đang có sự chuyển dịch từ sản xuất thông thường sang sản xuất xanh; (ii) Chính phủ cũng như ngành Công Thương đã có nhiều chính sách khuyến khích các doanh nghiệp chuyển đổi xanh, đặc biệt tại Chiến lược về phát triển ngành Dệt may và Da giày giai đoạn đến năm 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cũng đã đề ra lộ trình giúp các doanh nghiệp “xanh hóa” trong quá trình sản xuất; (iii) các định chế tài chính, các tổ chức tín dụng cũng đang có những chương trình vay vốn xanh để giúp doanh nghiệp có thể chuyển đổi xanh.
Ngoài ra, các sản phẩm thời trang của ngành dệt may, da giày hiện nay cũng được các nước trên thế giới rất ưa chuộng và Việt Nam có tới 16 Hiệp định Thương mại tự do để mở cửa thị trường xuất khẩu hàng hóa, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi, cũng có những thách thức đan xen. Cụ thể, TS. Nguyễn Văn Hội chỉ ra rằng, trong chuỗi sản xuất các sản phẩm dệt may, da giày của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào các nguyên, phụ liệu nhập khẩu, khiến quá trình truy xuất nguồn gốc không thể đảm bảo “xanh hóa”.
Bên cạnh đó, các cơ chế, chính sách đối với năng lượng, đặc biệt là năng lượng xanh, sử dụng năng lượng xanh tiết kiệm và hiệu qua trong thời gian tới vẫn cần tiếp tục nghiên cứu và ban hành những cơ chế, chính sách hiệu quả hơn nữa cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành dệt may, da giày.
Ngoài ra, cũng còn những thách thức liên quan đến công nghệ khi Việt Nam vẫn phải nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến, công nghệ hiện đại, đồng thời công nghệ xử lý nước thải, công nghệ tái chế, sử dụng các nguồn nguyên liệu thải ra cũng là khó khăn lớn cho ngành dệt may, da giày.
“Tuy nhiên, thách thức và cơ hội luôn đan xen với nhau, nếu doanh nghiệp vượt qua tất cả những thách thức thì sẽ tận dụng được cơ hội để tiếp tục phát triển bền vững và xanh hóa chuỗi cung ứng ngành dệt may, da giày, và tham gia vào chuỗi cung ứng trong nước cũng như toàn cầu.” - TS. Nguyễn Văn Hội nhấn mạnh.
Đồng bộ giải pháp "xanh hóa" chuỗi cung ứng ngành dệt may, da giày
Như vậy, “xanh hóa” mặc dù có rất nhiều thách thức nhưng cũng là động lực và là bài toán phát triển bền vững của doanh nghiệp. Để giải đáp được bài toán này, theo bà Phan Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam (Lefaso), điểm mấu chốt hiện nay là chúng ta thiếu giải pháp đồng bộ cho các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp dệt may, da giày.
Chiến lược phát triển ngành Dệt may và Da giày đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 đã đặt ra những mục tiêu rất rõ ràng, trong đó nêu bật vấn đền ngành công nghiệp dệt may, da giày hướng theo phát triển bền vững.
“Đây là giải pháp tổng thể giúp doanh nghiệp cũng Nhà nước ban hành được những chính sách phù hợp, khuyến khích các doanh nghiệp chuyển đổi, đồng thời xây dựng hệ tiêu chuẩn, quy chuẩn đồng nhất. Bởi trong quá trình chueyern đổi xanh, rất nhiều yêu cầu được đặt ra và những yêu cầu này sẽ kéo theo chi phí tuân thủ rất lớn cho các doanh nghiệp.” - Bà Phan Thị Thanh Xuân chia sẻ.
Ở góc độ là cơ quan quản lý nhà nước, TS. Nguyễn Văn Hội cho biết, trong Chiến lược phát triển ngành Dệt may và Da giày cũng đã định hướng và nêu rõ quan điểm quản lý Nhà nước phải đồng hành cùng doanh nghiệp, theo đó, để thực hiện được chiến lược này, cần xây dựng, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách liên quan đến (i) cơ chế, chính sách liên quan đến khuyến khích các doanh nghiệp tiếp cận đối với công nghệ nhập khẩu các công nghệ về sản xuất; (ii) khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trong chuỗi sản xuất mà ở Việt Nam còn đang gặp khó khăn, như thu hút đầu tư công nghệ, các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào sản xuất các nguồn nguyên liệu mà Việt Nam còn đang phải nhập khẩu để bù đắp lại và xây dựng cho chuỗi sản xuất; và (iii) cơ chế, chính sách hỗ trợ người lao động, dù trong bối cảnh nào, kể cả xanh hóa thì chính sách, cam kết lao động phải có và thực hiện theo đúng cam kết quốc tế và hỗ trợ đối với lao động.
Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế chính sách về năng lượng, các doanh nghiệp phải tiếp cận đối được với những nguồn năng lượng xanh, năng lượng sạch theo đúng yêu cầu và các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Về đối ngoại, các cơ quan quản lý nhà nước, ngành Công Thương và các cơ quan quản lý có liên quan quan phải thực sự đàm phán, trao đổi với phía đối tác những yêu cầu để từ đó xây dựng những bộ tiêu chí hoặc tiêu chuẩn, các quy định có liên quan để hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận gần hơn đối với thị trường quốc tế.
“Trong quá trình đàm phán trực tiếp, trao đổi thông tin thì cơ quan quản nhà nước phải đóng vai trò vô cùng quan trọng, để từ đó cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp để tiếp cận đối với các tiêu tiêu chí về xanh hóa cũng như các yêu cầu tiêu chuẩn xanh trong các sản phẩm dệt may, da giày và các doanh nghiệp phải có được truy xuất nguồn gốc cụ thể để cung cấp thông tin khi các đối tác quốc tế yêu cầu trong toàn bộ quá trình từ sản xuất đến thành phẩm cuối của sản phẩm dệt may, da giày.” - TS. Nguyễn Văn Hội cho biết.
Bên cạnh đó, các chương trình của ngành Công Thương, của Bộ Công Thương cũng cần phải chuyển đổi. Trong năm 2024 riêng đối với Chương trình Thương hiệu quốc gia cũng đã tập trung vào “xanh hóa” các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ nói chung cũng như hàng dệt may, da giày nói riêng, cùng với đó là Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia, các Chương trình Khuyến công quốc gia, Chương trình Công nghiệp hỗ trợ cũng phải chuyển đổi để tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp,… trong đó có doanh nghiệp dệt may, da giày hướng tới tham gia vào chuỗi cung ứng xanh và đòi hỏi chuyển đổi xanh trong bối cảnh thời gian tới.