Đồng tiền và tự chủ dân tộc
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền non trẻ của nước ta đã phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thách thức, đặc biệt là về vấn đề tài chính-tiền tệ. Khi đó, Kho bạc chỉ còn hơn 1,25 triệu đồng Đông Dương, trong đó một nửa là tiền rách; Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản thực dân và luôn tìm cách phá hoại ta về tài chính, tiền tệ; các nguồn thu ngân sách quá ít ỏi so với nhu cầu chi tiêu của chính quyền. Trải qua quá trình phát triển, đến nay, đất nước ta có đồng tiền ổn định, tin cậy và có nền tài chính bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Nhớ thuở "Quỹ độc lập", "Tuần lễ vàng"
Nhớ thuở ban đầu của chính quyền non trẻ, Chính phủ đã kêu gọi nhân dân quyên góp tài chính dưới các hình thức như “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng”, đồng thời gấp rút chuẩn bị phát hành tiền. Bên cạnh đó, để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế kháng chiến, Chính phủ cho thành lập 3 khu vực tiền tệ và cho phép phát hành các đồng tiền khu vực. Nhiều biện pháp đã được áp dụng để tạo nguồn thu cho ngân sách, như: Phát hành Công phiếu kháng chiến, Công trái quốc gia... Ngày 3-2-1947, Nha Tín dụng sản xuất-tổ chức tín dụng đầu tiên ở nước ta-được thành lập với nhiệm vụ giúp vốn cho nhân dân phát triển sản xuất, hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn, làm hậu thuẫn cho chính sách giảm tức và hướng dẫn nhân dân đi vào con đường làm ăn tập thể.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (năm 1961 đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ; quản lý Kho bạc Nhà nước; huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa; quản lý ngoại hối và đấu tranh tiền tệ với địch. Đồng thời có nhiều cải tiến trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt, mở rộng quan hệ thanh toán đến hầu hết xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan của Nhà nước; tập trung quản lý và đẩy mạnh các nguồn thu ngoại hối để chi viện cho chiến trường miền Nam, đáp ứng nhu cầu kiến thiết nước nhà. Qua đó góp phần quan trọng đưa đất nước ta đi đến thắng lợi cuối cùng.

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đồng hành với nông dân trong các hoạt động tín dụng xanh. Ảnh: NGÔ TRANG
Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, ngành ngân hàng đã khẩn trương tiếp quản và cải tạo hệ thống ngân hàng của chế độ cũ, xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng, thực hiện thống nhất tiền tệ trong cả nước; ban hành và thực hiện nhiều biện pháp về tiền tệ, tín dụng, quản lý ngoại hối, thanh toán để góp phần ổn định tình hình kinh tế và lưu thông tiền tệ; đáp ứng nhu cầu vốn và tiền mặt cho sản xuất, quốc phòng, an ninh và đời sống kinh tế-xã hội; mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế cho công cuộc tái thiết đất nước.
Đối với nguồn vốn tín dụng, có thể khẳng định đây là nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng của Việt Nam. Trong 10 năm qua, tăng trưởng tín dụng đạt mức cao khoảng 11%-18%/năm. Đặc biệt, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam cũng có xu hướng tăng nhanh qua các năm. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ tín dụng/GDP của nước ta có xu hướng tăng nhanh trong khoảng từ năm 2000 đến nay. Nếu như năm 2000, tỷ lệ tín dụng/GDP chỉ khoảng 38% thì trong khoảng 10 năm gần đây, tỷ lệ tín dụng/GDP đã tăng dần và đạt đỉnh 134% vào năm 2024. Điều này cho thấy hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ chốt trong việc cung cấp nguồn lực cho nền kinh tế.
Nguồn lực tài chính - tiền tệ có vai trò then chốt trong phát triển bền vững
Trong nửa đầu năm 2025, tín dụng tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Cụ thể, tính đến ngày 30-6-2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt hơn 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024, tăng 19,32% so với cùng kỳ năm 2024. Đây cũng là mức tăng trưởng tín dụng cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Có thể khẳng định, Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới. Nguồn lực tài chính-tiền tệ đóng vai trò then chốt, là cốt lõi cho việc bảo đảm hoạch định, thực thi và duy trì mục tiêu kép tăng trưởng nhanh và bền vững. Thúc đẩy tín dụng gắn với phát triển bền vững là xu thế tất yếu và là động lực quan trọng để Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế.
Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính-tiền tệ, hướng tới các mục tiêu trên, việc phát triển nguồn vốn tín dụng ngân hàng đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách nhà nước, năng lực của hệ thống ngân hàng, sự chủ động của doanh nghiệp và vai trò của xã hội dân sự. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về ngân hàng xanh, tài chính xanh, tích hợp tiêu chí ESG (môi trường-xã hội-quản trị) vào hoạt động cấp tín dụng, quản trị rủi ro và báo cáo của ngân hàng. Bên cạnh đó, cần xem xét xây dựng cơ sở dữ liệu tín dụng xanh quốc gia, thành lập Trung tâm hỗ trợ tài chính xanh với đầu mối là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trên cơ sở hợp tác công tư cùng vận hành. Cùng với đó, cần thu hút đầu tư xanh, trái phiếu bền vững, trái phiếu khí hậu, đặc biệt từ các tổ chức quốc tế và khu vực tư nhân để tạo nguồn tài trợ dài hạn cho các khoản tín dụng bền vững. Cần thiết lập sàn giao dịch carbon, thị trường tài chính môi trường để đa dạng hóa sản phẩm và kênh tín dụng.
Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/dong-tien-va-tu-chu-dan-toc-842327