Đột phá về nhân lực là linh hồn của các đột phá chiến lược

Góp ý dự thảo các Văn kiện Đại hội XIV tại phiên họp tổ, ĐBQH Nguyễn Thị Tuyết Nga nhấn mạnh, cần xác định rõ hơn đột phá về nhân lực là linh hồn của các đột phá chiến lược, cần được cụ thể hóa để đột phá này trở thành động lực cốt lõi.

Tôi đánh giá cao việc chuẩn bị các báo cáo, nội dung, cách thức thể hiện trong các dự thảo Văn kiện có nhiều đổi mới. Dự thảo các báo cáo ngắn gọn, súc tích, nội dung rõ ràng, giảm tính hàn lâm, có tính định lượng, hành động, thể hiện tư duy mới, nhất là dự thảo Báo cáo chính trị. Những vấn đề có tính chất lý luận, tổng kết từ thực tiễn 40 năm đổi mới cũng được thể hiện khái quát cao, đúc kết thành các quan điểm chỉ đạo, bài học kinh nghiệm, các nhiệm vụ trọng tâm và các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ 2026 - 2030 để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước.

 Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Phát triển nguồn nhân lực có nhiều đổi mới hướng đến mục tiêu kép

Nội dung về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững của đất nước; Xác lập mô hình tăng trưởng mới lấy khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số là động lực chính, là nội dung trung tâm của mô hình phát triển đất nước; là chủ đề nổi bật trong dự thảo Văn kiện. Nội dung này có sự kết nối, liên kết trong các lĩnh vực kinh tế - văn hóa và xã hội, từ quản trị quốc gia đến phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh và giải quyết những vấn đề văn hóa, xã hội cấp bách đang đặt ra.

Nội dung về phát triển nguồn nhân lực, nhất là giáo dục và đào tạo có nhiều đổi mới hướng đến mục tiêu kép: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới; đảm bảo công bằng xã hội trong tham gia, thụ hưởng thành quả của chính sách giáo dục, “giáo dục cho mọi người” trong cuộc cách mạng 4.0.

Về chủ đề Đại hội, tôi xin có một số góp ý cụ thể sau: Tổ văn kiện đã thuyết minh điểm mới của văn kiện Đại hội, trong đó xác định chủ đề đại hội với nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên tôi cho rằng Chủ đề đại hội: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đên năm 2030; tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin,tiến mạnh tromng kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vì hòa bình độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Chủ đề còn dài, thông điệp còn chung chung, cần cân nhắc xác định chủ đề đại hội nên là thông điệp ngắn gọn thể hiện sự hiệu triệu và thể hiện tư tưởng cốt lõi nhất của Đại hội XIV cho sự phát triển đất nước trong nhiệm kỳ tới.

Về đánh giá việc thực hiện nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và cơ đồ của đất nước trong 40 năm đổi mới (phần I của Văn kiện Đại hội), các đánh giá trong báo cáo đã chắt lọc thực tiễn, đánh giá khái quát nhưng khá rõ về kết quả nổi bật, quan trọng, đặc biệt là những kết quả đột phá cuối nhiệm kỳ và đã nêu những điểm bất cập cố hữu trong nhiều nhiệm kỳ.

Tuy nhiên, tôi thấy băn khoăn vì phần đánh giá những kết quả đạt được có thể hiện bằng 4 nhiệm vụ trong đó có đánh giá về kết quả thực hiện 3 khâu đột phá chiến luơc (10 trang); trong khi phần hạn chế, yếu kém (3 trang) khá là khái quát. Tôi đề nghị phần hạn chế cần được nhận diện rõ ràng hơn. Đặc biệt là việc đánh giá những bất cập trong thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược để có giải pháp căn cơ hơn trong quan điểm, định hướng, giải pháp cho nhiệm kỳ tời.

Cần điểm được những thành tựu nổi bật hơn của giáo dục và đào tạo

Riêng phần đánh giá giáo dục và đào tạo: Báo cáo đã dành 6 dòng ghi nhận cho những kết quả, 6 dòng cho những bất cập về thực hiện Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Việc cô đọng cho đánh giá này trong Báo cáo Chính trị là cần thiết, tuy nhiên tôi nhận thấy các đánh giá cần cân nhắc, điểm được những thành tựu nổi bật hơn và những bất cập, hạn chế bản chất hơn.

Báo cáo tại trang 4 viết: “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo đạt được một số kết quả quan trọng. Nội dung, phương thức giáo dục và đào tạo có sự đổi mới; chất lượng giáo dục đào tạo ở tất cả các cập học được nâng lên. Hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo tiếp tục được mở rộng. Đặc biệt, đã thực hiện miễn, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đã sớm triển khai chủ trương đầu tư xây dựng các trường nội trú liên cấp ở cấp ở các xã biên giới và đất liền”.

Tôi đề nghị cân nhắc để các nhận định này bảo đảm nhất quán với Kết luận số 91 của Trung ương về tổng kết Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, cũng như Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Trong đó, đề nghị khẳng định rõ rằng công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Về nội dung “thực hiện miễn, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân; đã sớm triển khai chủ trương đầu tư xây dựng các trường nội trú liên cấp ở các xã biên giới và đất liền”, tôi cho rằng đây là những chính sách quan trọng dành cho người học và cho giáo dục vùng khó khăn, nhằm hướng tới mục tiêu bình đẳng và công bằng trong giáo dục.

Do đó, cần đánh giá ở vấn đề lớn có tính bản chất chứ không phải là những việc cụ thể, có tính liệt kê. Cần cân nhắc chọn những thành tựu tiêu biểu hơn trong Đánh giá về giáo dục.

Về bất cập tại trang 12, Báo cáo có nêu: “Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chưa đồng bộ, thiếu tính hệ thống, còn lúng túng”. Tôi nhất trí với bất cập này.

Tuy nhiên, tôi rất băn khoăn với nhận định: “Việc thực hiện xã hội hóa trong giáo dục còn có biểu hiện sai lệch”. Cần cẩn trọng hơn với nhận định này: Sai lệch như thế nào? Nghị quyết của Trung ương cũng như pháp luật của Quốc hội tôi cho là rất đúng đắn. Việc thực hiện trong thực tiễn có thể còn những bất cập, chưa có cơ chế mạnh mẽ để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục. Nhưng đánh giá là “sai lệch” cần được cân nhắc thận trọng trong Báo cáo Chính trị rất quan trọng này.

Về chất lượng giáo dục: Báo cáo phần trên ghi nhận, nhưng ở phần bất cập lại viết: “Chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục phẩm chất, nhân cách, nghề nghiệp, giáo dục đại học chậm được cải thiện”. Tôi đề nghị cần cân nhắc thận trọng nhận định này, nếu không sẽ mâu thuẫn với phần kết quả đã nêu.

Một trong những hạn chế, yếu kém, báo cáo nêu: “Giáo dục và đào tạo vùng xa, vùng dân tộc còn nhiều khó khăn”. Theo tôi, phải đề cập đến vấn đề bản chất hơn, đó là vấn đề công bằng xã hội trong tham gia, thụ hưởng thành quả của chính sách giáo dục.

Một điểm hạn chế, yếu kém nữa, báo cáo nêu: “Chính sách đối với nhà giáo còn bất cập”. Theo tôi, phải đánh giá về hạn chế trong chất lượng đội ngũ chứ không phải chỉ chính sách; chính sách nhà giáo, vị thế của nhà giáo cũng đã được thể hiện trong nhiều Nghị quyết của Trung ương và pháp luật của Quốc hội.

Vì vậy, trong 5 dòng để khái quát những hạn chế, yếu kém của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo như văn kiện tại trang 12 cần cân nhắc thận trọng thêm. Cần nghiên cứu kỹ Báo cáo Tổng kết 40 năm về giáo dục và đào tạo do Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội chủ trì, Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì (Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo) cũng như cập nhật những đánh giá kết quả trong Nghị quyết 71 về đột phá giáo dục và đào tạo, để lựa chọn những vấn đề có tính bản chất, căn cốt nhất của giáo dục và đào tạo, cả về thành tựu và hạn chế, yếu kém, hoàn thiện hơn cho việc đánh giá để có định hướng và chính sách khả thi, phù hợp thực tiễn.

Từ phát triển nhân lực đến kiến tạo năng lực quốc gia dựa trên con người

Về nội dung xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới và khâu đột phá về nhân lực, đây là một yêu cầu mới, lớn, cấp thiết để phát triển đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước. Vì vậy, phải có nguồn nhân lực chất lượng cao; cần phải có một nền giáo dục mở, hiện đại, hội nhập để tạo ra thế hệ công dân có tri thức, kỹ năng, phẩm chất đáp ứng yêu cầu mới; một nền giáo dục phải hướng đến sự công bằng, sáng tạo và phát triển toàn diện.

Tôi nhất trí về cơ bản với định hướng giải pháp trong Văn kiện. Tuy nhiên, cần xác định rõ hơn đột phá về nhân lực là linh hồn của các đột phá chiến lược, cần được cụ thể hóa trong Quyết định cũng như trong định hướng và Chương trình hành động, để đột phá này trở thành động lực cốt lõi. Từ phát triển nhân lực đến kiến tạo năng lực quốc gia dựa trên con người.

Cần xác định các nhóm giải pháp để tập trung nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với nhu cầu phát triển đất nước; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học công nghệ, đội ngũ nhà giáo, nhân lực y tế; đồng thời có chính sách thu hút, trọng dụng và giữ chân nhân tài ở khu vực công và các lĩnh vực then chốt.

Điểm mới của Văn kiện lần này là có Chương trình hành động kèm theo Văn kiện Đại hội.

Tuy nhiên, Chương trình hành động để thực hiện việc xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới, và việc thực hiện khâu đột phá về nhân lực vẫn chưa tương xứng với định hướng đã nêu trong Báo cáo Chính trị: “Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới và khâu đột phá về nhân lực”.

Chương trình hành động thực hiện khâu đột phá về nhân lực còn chưa rõ, rất chung. Tôi đề nghị cần có Chương trình hành động về xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao.

ĐBQH Nguyễn Thị Tuyết Nga (đoàn Quảng Trị)

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/dot-pha-ve-nhan-luc-la-linh-hon-cua-cac-dot-pha-chien-luoc-post1585338.html