Dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi): Cụ thể hóa phạm vi bí mật nhà nước

Thảo luận tại hội trường về dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi) chiều 7/11, các đại biểu Quốc hội đề nghị cần cụ thể hóa phạm vi bí mật nhà nước

Số lượng văn bản mật quá lớn và phân tán

ĐBQH Nguyễn Phương Thủy (Hà Nội) nhất trí cao việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ bí mật nhà nước nhằm kịp thời thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách hành chính; khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành Luật hiện hành từ năm 2020 đến nay.

ĐBQH Nguyễn Phương Thủy (Hà Nội) phát biểu. Ảnh: Quang Khánh

ĐBQH Nguyễn Phương Thủy (Hà Nội) phát biểu. Ảnh: Quang Khánh

Dự thảo Luật có những điểm mới tiến bộ, đặc biệt trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính. Tuy nhiên, băn khoăn về phân loại thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước, đại biểu Nguyễn Phương Thủy cũng nêu vấn đề, mặc dù hiện nay không thống kê được số lượng văn bản, tài liệu được đóng dấu “mật” vì số lượng quá lớn và phân tán, nhưng chắc chắn là có không ít tài liệu đang bị “mật hóa” vượt mức yêu cầu thực tế.

"Điều này đang vô tình gây ra những thiệt hại lãng phí cho quản trị công, cho minh bạch quốc gia và cho quyền tiếp cận thông tin của người dân", đại biểu nhận định.

Từ thực tiễn kiểm tra, giám sát, đại biểu cho biết, có nơi việc đóng dấu mật đã trở thành phản xạ hành chính. Cứ tài liệu liên quan đến công tác cán bộ, tài liệu trong quá trình soạn thảo đều là mật. Các tài liệu nội bộ không đóng dấu mật nhưng vẫn phải quản lý, sử dụng như tài liệu mật. Thậm chí có những nội dung đã được báo chí đưa tin rộng rãi nhưng vẫn tiếp tục được đóng dấu mật. Có trường hợp cơ quan, tổ chức đóng dấu mật không phải để bảo vệ lợi ích quốc gia mà để an toàn cho người ký, để tránh bị chất vấn, tránh phải giải trình hoặc thậm chí để che giấu thông tin sai phạm.

Các đại biểu dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng

Các đại biểu dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng

Đại biểu Nguyễn Phương Thủy chỉ rõ, hiện tượng trên đang tạo ra gánh nặng không nhỏ trong quản lý nhà nước. Người được giao lưu trữ, in ấn, chuyển giao, sao chụp, bảo quản hay tiêu hủy tài liệu phải tuân thủ hàng loạt các quy định nghiêm ngặt, rất tốn thời gian, công sức.

Trong hoạt động giám sát, giải trình, tiếp cận thông tin phục vụ công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội, không ít lần các ĐBQH gặp tình huống tài liệu mật không thực sự có nội dung mật nhưng lại không thể tiếp cận, trích dẫn công khai vì chưa được chính thức giải mật.

Có nội dung luật yêu cầu Quốc hội thảo luận công khai như các nội dung liên quan đến dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm nhưng số liệu, tài liệu cung cấp cho ĐBQH lại được đóng dấu mật.

Các đại biểu dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng

Các đại biểu dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng

"Điều này đi ngược với tinh thần minh bạch, công khai và thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ như được nêu trong Chỉ thị số 53 mới đây của Bộ Chính trị", đại biểu Nguyễn Phương Thủy nhấn mạnh.

Phân tích nguyên nhân của hiện tượng trên, đại biểu cho rằng, trước hết, quy định của pháp luật còn rộng và chưa đủ rõ.

Cụ thể, Điều 7 dự thảo Luật quy định phạm vi bí mật nhà nước là giới hạn thông tin quan trọng chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia dân tộc. "Đây là tiêu chí cốt lõi, rất đúng về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên khi áp dụng, nhiều cơ quan có xu hướng chọn phương án đóng mật cho chắc vì không có tiêu chí định lượng, không có hướng dẫn cụ thể để phân biệt đâu là bí mật cần bảo vệ, đâu là thông tin cần công khai, đến mức nào thì được coi là có thể gây nguy hại", đại biểu cho biết.

Nguyên nhân thứ hai là do thiếu chế tài xử lý hành vi lạm dụng. Luật hiện hành chưa có quy định rõ hậu quả pháp lý đối với trường hợp cố ý đóng dấu mật không đúng quy định hay sử dụng hình thức văn bản mật để che giấu thông tin, né tránh giải trình. Khi đóng dấu mật sai không bị xử lý thì hành vi lạm dụng sẽ tiếp tục tồn tại.

Các đại biểu dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Các đại biểu dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Nguyên nhân thứ ba là khoảng trống pháp lý đối với tài liệu lưu hành nội bộ. Hiện nay, vì thiếu khung pháp lý điều chỉnh nhóm tài liệu này nên cán bộ, công chức e ngại, không dám cung cấp thông tin cho các bên có liên quan, không dám đưa dữ liệu lên nền tảng số, không dám ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào phân tích văn bản, sợ rủi ro lộ lọt thông tin. Chính sự thiếu rõ ràng đã vô tình trở thành rào cản với chuyển đổi số và cải cách hành chính.

Từ những phân tích trên, đại biểu Nguyễn Phương Thủy cũng cho rằng, bất cập không chỉ nằm ở khâu mật hóa mà còn nằm ở khâu giải mật.

Theo Điều 10 dự thảo Luật, để xác định tài liệu là bí mật nhà nước, chỉ cần người đứng đầu hoặc cấp phó có ủy quyền của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quyết định. Đây là thủ tục đơn giản, nhanh và tính trách nhiệm rất rõ nhưng khi giải mật, đặc biệt là đối với các trường hợp quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 22 thì phải thành lập hội đồng giải mật gồm nhiều thành phần, có họp, có biên bản, có hồ sơ lưu trữ.

Quang cảnh phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Quang cảnh phiên họp. Ảnh: Quang Khánh

Điều này tạo ra nghịch lý: mật hóa thì dễ mà giải mật thì khó, dẫn tới tình trạng đóng mật rồi để đó. Hệ quả là nhiều tài liệu vốn nên được công khai để phục vụ minh bạch và kiểm soát quyền lực lại bị “treo” trong trạng thái mật kéo dài nhiều năm.

Cần lượng hóa tiêu chí "mật"

Từ thực tiễn trên, đại biểu Nguyễn Phương Thủy đề nghị, cần cụ thể hóa phạm vi bí mật nhà nước tại Điều 7 dự thảo Luật. Theo đó, danh mục bí mật nhà nước phải được rà soát chặt chẽ, chỉ giới hạn trong những trường hợp thực sự cần thiết, có tiêu chí rõ ràng, tránh suy diễn, tránh mật hóa quá mức. Dự thảo Luật cần lượng hóa tiêu chí để bảo đảm thống nhất khi áp dụng hoặc giao chính phủ quy định chi tiết nội dung này.

Đại biểu Nguyễn Phương Thủy cũng đề nghị bổ sung một khoản vào Điều 5 dự thảo Luật, nghiêm cấm hành vi cố ý hoặc lạm dụng việc xác định mật đối với thông tin không thuộc phạm vi danh mục bí mật nhà nước, đóng dấu mật để che giấu thông tin, né tránh trách nhiệm giải trình.

Cùng với đó, cần đơn giản hóa thủ tục giải mật. Đại biểu Nguyễn Phương Thủy đề nghị, chỉ áp dụng cơ chế hội đồng giải mật đối với nhóm tài liệu có độ tuyệt mật hoặc tài liệu có yếu tố ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng. Còn đối với các thông tin tài liệu mật hoặc tối mật đã không còn lý do bảo vệ có thể giao thẩm quyền giải mật trực tiếp cho người đứng đầu cơ quan đã ban hành hoặc cơ quan cơ quan có quyền sử dụng tài liệu đó.

ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng). Ảnh: Phạm Thắng

ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng). Ảnh: Phạm Thắng

Cũng góp ý về phạm vi bí mật nhà nước tại Điều 7, ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) cho rằng, phạm vi được xây dựng rất toàn diện, bao quát 13 lĩnh vực từ chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế đến khoa học - công nghệ và y tế. Tuy nhiên, Điều 7 dự thảo Luật liệt kê phạm vi rộng, dễ dẫn đến việc lạm dụng đóng dấu “Mật”.

Do đó, đại biểu đề nghị cần bổ sung một nguyên tắc định hướng ngay trong lời dẫn hoặc trong một khoản mới theo hướng: “Phạm vi bí mật nhà nước phải được thường xuyên rà soát, điều chỉnh theo hướng thu hẹp tối đa để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động công khai thông tin và chuyển đổi số”. Nguyên tắc này sẽ tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan chủ động và nghiêm túc thực hiện việc giải mật những thông tin đã cũ hoặc không còn nguy hại, thúc đẩy tính minh bạch.

Thanh Chi

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/du-an-luat-bao-ve-bi-mat-nha-nuoc-sua-doi-cu-the-hoa-pham-vi-bi-mat-nha-nuoc-10394879.html