Du lịch Việt Nam cần cú hích từ sáng tạo, chính sách visa và hợp tác công - tư

Ông Nguyễn Tiến Đạt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Hà Nội, CEO AZA Travel cho rằng, muốn bứt phá trong những tháng cuối năm, ngành du lịch cần chủ động truyền thông, cải thiện chính sách visa và tận dụng sức mạnh hợp tác công - tư.

Ông Nguyễn Tiến Đạt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Hà Nội, CEO AZA Travel.

Ông Nguyễn Tiến Đạt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Hà Nội, CEO AZA Travel.

Thưa ông, 9 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã đón hơn 15 triệu lượt khách quốc tế, một kết quả rất tích cực, nhưng còn cách mục tiêu đón 25 triệu lượt khách quốc tế trong năm nay còn khá xa. Vậy theo ông, đâu là những giải pháp trọng tâm để ngành du lịch đạt mục mục tiêu đầy thách thức này?

Từ nay đến cuối năm chỉ còn chưa đầy một quý, nhưng đây lại là giai đoạn cao điểm của du lịch quốc tế. Tôi cho rằng, cần triển khai những giải pháp vừa cấp bách, vừa hiệu quả.

Trước hết, các doanh nghiệp lữ hành phải chủ động chốt tour với đối tác quốc tế. Nhiều khách đã tìm hiểu điểm đến Việt Nam, nhưng việc họ có quyết định đi hay không lại phụ thuộc vào khâu “chốt đơn” trong giai đoạn này. Khi có lịch trình cụ thể, doanh nghiệp trong nước mới có thời gian chuẩn bị dịch vụ tốt nhất để đón khách.

Thứ hai, cần tăng cường hợp tác công - tư, đồng thời liên kết với các đối tác nước ngoài nhằm tổ chức các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch. Hiệp hội Du lịch Hà Nội, cùng Hiệp hội Du lịch Việt Nam, thời gian qua đã phối hợp đón nhiều đoàn famtrip quốc tế, đặc biệt từ khu vực Đông Nam Á, đến khảo sát sản phẩm mới. Đây là hoạt động rất hiệu quả, bởi sau mỗi chuyến khảo sát, họ sẽ quảng bá và giới thiệu Việt Nam đến chính khách hàng của họ.

Ngoài ra, yếu tố truyền thông, đặc biệt là truyền thông số và mạng xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng. Năm vừa qua, chiến dịch “Vietnam is calling” đã tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ, khiến du khách quốc tế hào hứng đến Việt Nam.

Tôi nghĩ, nếu chúng ta tiếp tục phát huy sức mạnh này bằng những nội dung sáng tạo, gần gũi và chân thực, thì hiệu quả thu hút khách sẽ đến rất nhanh.

Theo ông, làm thế nào để mô hình hợp tác công - tư trong du lịch trở thành xu thế bền vững, chứ không chỉ mang tính phong trào?

Tôi cho rằng hợp tác công - tư là xu hướng tất yếu để phát triển du lịch. Ngành du lịch không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước; cần huy động sức mạnh của xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp.

Mới đây, Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam phối hợp với nền tảng du lịch trực tuyến Traveloka tổ chức Hội thảo “Phát triển và quảng bá điểm đến du lịch thông qua hợp tác công - tư”. Đây là một chương trình rất ý nghĩa. Traveloka là ví dụ điển hình: họ sở hữu hệ sinh thái đặt vé, đặt phòng và dịch vụ du lịch với hàng triệu người dùng. Khi nhà nước và doanh nghiệp cùng bắt tay, hiệu quả quảng bá sẽ nhân lên gấp nhiều lần.

Hợp tác công - tư có thể triển khai rất linh hoạt. Chẳng hạn, doanh nghiệp và cơ quan quản lý cùng phát hành phiếu giảm giá du lịch, giúp du khách được hưởng lợi, doanh nghiệp tăng lượng khách, còn đơn vị phát hành có thêm thương hiệu. Hay việc phối hợp đón các đoàn famtrip, press trip, KOLs quốc tế đến khảo sát điểm đến đây là hoạt động chi phí thấp nhưng hiệu quả cao.

Một ví dụ điển hình là chương trình kích cầu du lịch các tháng cuối năm 2025 của Đà Nẵng bao gồm 5 chương trình đặc biệt và 2 giải pháp hoàn toàn mới.

5 chương trình đặc biệt kích cầu gồm Tận hưởng Đà Nẵng - Đa trải nghiệm mới; Enjoy Danang - Diverse Experiences; 3 Hộ chiếu trải nghiệm; Hành trình trải nghiệm sự kiện và lễ hội (Event and Festival Tour); “Tôi yêu Đà Nẵng - I love Da Nang và Các chính sách riêng dành cho khách du lịch MICE và du lịch cưới trong năm 2025.

Đồng hành cùng chương trình là các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Đà Nẵng với những gói ưu đãi dành tặng du khách trong từng chương trình kích cầu này. Quà tặng đặc biệt khi đặt combo du lịch Đà Nẵng thông qua các đơn vị lữ hành tham gia chương trình.

Chương trình kích cầu du lịch các tháng cuối năm 2025 của Đà Nẵng bao gồm 5 chương trình đặc biệt và 2 giải pháp hoàn toàn mới.

Chương trình kích cầu du lịch các tháng cuối năm 2025 của Đà Nẵng bao gồm 5 chương trình đặc biệt và 2 giải pháp hoàn toàn mới.

Đà Nẵng đặt ra hai giải pháp hoàn toàn mới gồm Giải pháp thanh toán trực tuyến dành cho khách du lịch quốc tế.

Và trải nghiệm bộ 3 Hộ chiếu Đà Nẵng trực tuyến bao gồm ứng dụng tích hợp với trải nghiệm Bộ 3 Hộ chiếu online là Hộ chiếu ẩm thực Đà Nẵng Food Tour, Hộ chiếu di sản Đà Nẵng Heritage Tour, Hộ chiếu du lịch xanh Đà Nẵng Green Tour.

Hầu như các chương trình kích cầu dùng rất ít ngân sách nhà nước. Các resort, khách sạn, trung tâm hội nghị cùng góp sức, và kết quả là lượng khách quốc tế đến Đà Nẵng từ đầu năm đến nay tăng 27% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là con số trong mơ của một điểm đến vốn đã nổi tiếng như Đà thành. Quan trọng hơn, đó là nhóm khách cao cấp, lưu trú dài và chi tiêu lớn.

Do đó, tôi cho rằng, ngành du lịch cần bắt đầu từ sự đồng thuận trong nhận thức: phát triển du lịch là nhiệm vụ chung, không thể chỉ trông vào một bên. Cơ quan quản lý phải tạo cơ chế và môi trường thuận lợi để doanh nghiệp yên tâm tham gia. Khi mọi bên đều nhìn thấy lợi ích, sự hợp tác sẽ tự nhiên và bền vững.

Thêm nữa, cần chú trọng hoạt động xúc tiến, quảng bá. Đây là lĩnh vực khu vực tư nhân có thể làm rất tốt nhờ tính linh hoạt, sáng tạo và am hiểu thị trường. Nếu nhà nước hỗ trợ về cơ chế, còn doanh nghiệp đầu tư về ý tưởng và công nghệ, chúng ta sẽ tạo ra những chiến dịch truyền thông có sức lan tỏa mạnh mẽ, giúp hình ảnh Việt Nam đến gần hơn với thế giới.

Các chuyên trang quốc tế gần đây nhận định Việt Nam đang vượt Thái Lan về lượng khách Trung Quốc. Với thị trường Đông Bắc Á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, ông nhìn nhận tiềm năng ra sao và hướng khai thác nào là bền vững trong những tháng cuối năm và thời gian tới?

Trước nay, Thái Lan luôn là “ngôi sao số một” về thu hút khách quốc tế, đặc biệt là khách Trung Quốc. Tuy nhiên, năm qua, Thái Lan gặp nhiều khó khăn, trong khi Việt Nam lại nổi lên nhờ lợi thế an ninh, an toàn vượt trội. Đây là yếu tố mà du khách quốc tế hiện rất coi trọng.

Chúng ta cần truyền thông mạnh mẽ hơn về hình ảnh một Việt Nam an toàn, thân thiện, hấp dẫn. Du khách Trung Quốc hay Nhật Bản, Hàn Quốc đều rất nhạy với thông tin về an ninh, môi trường và trải nghiệm văn hóa. Nếu làm tốt khâu truyền thông, chúng ta sẽ chiếm được lòng tin của họ.

Tuy vậy, ngành du lịch Việt Nam vẫn còn khá bị động trong việc khai thác thị trường Đông Bắc Á. Trước đây, chúng ta phụ thuộc nhiều vào các công ty lữ hành nước bạn, thậm chí từng xuất hiện hiện tượng “tour 0 đồng”. Bây giờ là lúc phải thay đổi tư duy: chủ động tiếp cận khách, đặc biệt là nhóm khách giàu, đi theo gia đình hoặc nhóm nhỏ, những người có nhu cầu trải nghiệm riêng biệt và chi tiêu cao hơn.

Cần truyền thông trực tiếp tới các thành phố lớn, giàu có ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… giới thiệu về bãi biển Việt Nam, ẩm thực, văn hóa và con người. Khi khách hàng đã có cảm xúc tích cực, họ sẽ yêu cầu chính các công ty lữ hành tổ chức tour đến Việt Nam. Trong marketing, người ta gọi đó là “hiệu ứng ngược”, khi nhu cầu đến từ chính khách hàng, chứ không phải từ người bán.

Một trong những “chìa khóa mềm” để hút khách quốc tế là chính sách thị thực. Theo ông, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện những điểm nào để tạo sức cạnh tranh?

Chính sách visa của Việt Nam đã có bước tiến rất rõ rệt trong hai năm gần đây, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để cạnh tranh với các nước trong khu vực.

Từ 15/8/2023, Việt Nam đã nâng thời hạn lưu trú từ 30 lên 90 ngày, cho phép nhập cảnh nhiều lần, đó là bước tiến lớn. Năm nay, Chính phủ tiếp tục mở rộng miễn thị thực đơn phương cho 12 quốc gia, trong đó có nhiều nước châu Âu có mức chi tiêu cao như Thụy Sĩ, Ba Lan, Hungary...

Tuy nhiên, so với Singapore hay Indonesia, nơi miễn visa cho hơn 160 nước, thì độ mở của Việt Nam còn kém xa khi mới dừng ở mức hơn 30 nước. Chúng ta hoàn toàn có thể mở rộng miễn visa cho các thị trường tiềm năng ở châu Âu, nơi có khách có khả năng chi tiêu cao và mối quan hệ ngoại giao thân thiện với Việt Nam.

Bên cạnh đó, hệ thống visa điện tử cũng cần được cải tiến để thân thiện và mượt mà hơn. Dù đã có e-visa, nhưng hiện còn nhiều lỗi kỹ thuật khiến du khách phải nhờ qua dịch vụ trung gian, ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia. Việc nâng cấp hạ tầng số cho hệ thống e-visa là rất cần thiết.

Cuối cùng, khi đã có chính sách tốt, chúng ta phải truyền thông mạnh mẽ ra quốc tế thông qua các kênh ngoại giao, doanh nghiệp, hiệp hội, và đặc biệt là truyền thông số. Nếu du khách không biết mình được miễn visa, thì chính sách đó sẽ kém hiệu quả.

Nếu Việt Nam chủ động hơn trong truyền thông, mạnh dạn mở rộng visa và tận dụng sức mạnh hợp tác công - tư, du lịch Việt Nam hoàn toàn có thể bước vào giai đoạn tăng trưởng bền vững, khẳng định vị thế trong khu vực.

Hồ Hạ (thực hiện )

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/du-lich-viet-nam-can-cu-hich-tu-sang-tao-chinh-sach-visa-va-hop-tac-cong---tu-d411832.html