Dữ liệu - 'ngọn hải đăng' của công nghiệp văn hóa
Để phát triển công nghiệp văn hóa bền vững, theo các chuyên gia, một hệ thống dữ liệu thống kê chuẩn xác chính là 'ngọn hải đăng' giúp cho việc hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp; đồng thời, là cơ sở khẳng định đóng góp thực chất của ngành về kinh tế - xã hội.
Đánh giá đúng mức đóng góp, đưa ra chính sách phát triển phù hợp
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 2486/QĐ-TTg ngày 14/11/2025 phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chiến lược nêu rõ, mục tiêu đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm và đóng góp 7% GDP của đất nước; lực lượng lao động trong các ngành công nghiệp văn hóa bình quân tăng 10%/năm, chiếm tỷ trọng 6% trong tổng lực lượng lao động của nền kinh tế; đến năm 2045, phấn đấu các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam phát triển bền vững, đóng góp 9% GDP của đất nước.
6 lĩnh vực trọng điểm đã được xác định để tập trung nguồn lực, gồm: Điện ảnh, Nghệ thuật biểu diễn, Phần mềm/Trò chơi giải trí, Quảng cáo, Công nghệ, và Du lịch văn hóa. Đây là những ngành có tiềm năng lớn, vừa mang giá trị văn hóa, vừa có khả năng tạo ra lợi nhuận kinh tế cao.

Nghệ thuật biểu diễn - một trong 6 lĩnh vực trọng điểm của công nghiệp văn hóa giai đoạn tới. Ảnh: ND
Để hiện thực hóa các mục tiêu đột phá trong Chiến lược, các chuyên gia cho rằng, việc đầu tiên và quan trọng là phải có hệ thống đo lường chuẩn xác. Tại cuộc họp với chuyên gia Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) về “Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo WIPO” ngày 19/11/2025, Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trần Hoàng nhận định: kinh tế sáng tạo và các ngành công nghiệp văn hóa ngày càng khẳng định vai trò là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc xây dựng và áp dụng một hệ thống thống kê chuẩn hóa, đáng tin cậy là yêu cầu cấp thiết để đánh giá đúng mức đóng góp của các ngành này, từ đó đưa ra các chính sách phát triển phù hợp.
Tuy nhiên, theo ThS. Vũ Thị Vân Anh, Phó Trưởng Ban Chính sách và Khoa học thống kê, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - Tài chính, hiện nay, dữ liệu về các ngành công nghiệp văn hóa còn rải rác, phân tán, chưa được tập trung ở một đơn vị đầu mối cụ thể, dẫn đến không được tổ chức thống nhất. Thách thức lớn nhất là tiếp cận và thu thập dữ liệu từ khối tư nhân (ví dụ, doanh thu từ rạp chiếu phim, trò chơi điện tử), do bị giới hạn bởi các yếu tố pháp lý, trong khi đây lại là khối đóng góp lớn vào công nghiệp văn hóa.
Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số và toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều lĩnh vực mới (trò chơi điện tử, nội dung số, thương mại điện tử hóa, thiết kế), nhưng hệ thống chỉ tiêu hiện hành chưa có các chỉ tiêu cụ thể để đo lường, dẫn đến chồng chéo trong phân định.
Chính những hạn chế này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng bộ chỉ tiêu thống kê chung và thống nhất do một đầu mối chịu trách nhiệm; lựa chọn các chỉ tiêu quan trọng để lồng ghép vào hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia.
CEDM - cái nhìn toàn diện về quá trình tạo ra giá trị sáng tạo
Để công nghiệp văn hóa thực sự phát triển mạnh mẽ, không thể thiếu khuôn khổ thể chế rõ ràng và cơ sở hạ tầng tốt để tạo môi trường thuận lợi cho sáng tạo, trong đó cần thu thập dữ liệu cụ thể về tác động của công nghiệp văn hóa, sáng tạo.

Cần có hệ thống dữ liệu đầy đủ về bức tranh ngành công nghiệp sáng tạo. Ảnh: TN
Hiện nay, có nhiều phương pháp đo lường, thu thập dữ liệu về đóng góp của công nghiệp văn hóa sáng tạo, tuy nhiên, theo các chuyên gia, quá tập trung vào đầu ra mà thiếu đánh giá toàn diện các yếu tố đầu vào và quá trình; điều này dẫn đến bức tranh không đầy đủ về hệ sinh thái sáng tạo; bên cạnh đó, phương pháp này mang tính tuyến tính, chỉ đơn thuần phân biệt ngành nào đóng góp nhiều hơn, mà không giải thích được mối quan hệ tương tác phức tạp và năng động giữa các ngành công nghiệp sáng tạo. Vì thế, các dữ liệu được tạo ra trong hệ thống đánh giá cũ có thể thiếu chính xác, không phản ánh kịp thời sự thay đổi và chuyển dịch của ngành trong kỷ nguyên số.
Để cải thiện những hạn chế này, Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) đã giới thiệu Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo (The Creative Economy Data Model - CEDM). CEDM là công cụ được thiết kế dựa trên mô hình hệ sinh thái, nhằm đánh giá chất lượng và tiềm năng của công nghiệp sáng tạo ở cấp quốc gia.
Ông Gantchev Dimiter, Trưởng phòng Bản quyền và Công nghiệp sáng tạo của WIPO cho biết, cấu trúc cơ bản của CEDM tuân theo logic Đầu vào (Input) - Đầu ra (Output), cung cấp cái nhìn toàn diện về quá trình tạo ra giá trị sáng tạo; phần Đầu vào được thiết kế để phân tích các điều kiện chính, hay các yếu tố tạo điều kiện cho sáng tạo phát triển, như: thể chế và pháp lý; giá trị văn hóa và xã hội, bao gồm mức độ sáng tạo, tôn trọng sở hữu trí tuệ trong cộng đồng; kiến thức, tài năng, kỹ năng và khả năng lãnh đạo; cơ sở hạ tầng, tài chính...
Đầu ra (Output) của mô hình đo lường kết quả, thể hiện qua giá trị sáng tạo và đóng góp trực tiếp/gián tiếp vào nền kinh tế. Các chỉ số đầu ra chính bao gồm: đóng góp vào GDP, số lượng việc làm được tạo ra, và khả năng bảo hộ sở hữu trí tuệ.

Chuyên gia của WIPO giới thiệu mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo
Tại Việt Nam, thời gian qua, Cục Bản quyền tác giả, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Cục Thống kê, Bộ Tài chính nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu chuẩn hóa, khả thi và có tính ứng dụng cao. Trong bối cảnh ấy, theo Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả Trần Hoàng, Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO giúp Việt Nam tiếp cận phương pháp thống kê hiện đại. Từ đó, hình thành bộ chỉ số phát triển công nghiệp văn hóa toàn diện, vừa phục vụ công tác quản lý nhà nước, vừa hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân có thêm thông tin để phát triển, góp phần hiện thực hóa Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.












