Dự phòng và điều trị HIV cho trẻ vị thành niên
So với điều trị HIV cho người lớn, việc điều trị HIV cho trẻ vị thành niên (VTN) gặp khó khăn hơn do nhiều yếu tố như: hạn chế kiến thức về HIV, kỳ thị và phân biệt đối xử, lịch học trùng với lịch khám, quên thuốc, ngại uống thuốc, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị…
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trẻ VTN là người từ 10-19 tuổi. Bên cạnh công tác dự phòng, điều trị, trẻ VTN nhiễm HIV cần được hỗ trợ nhiều dịch vụ khác như: tư vấn sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, bệnh lây truyền qua đường tình dục, tư vấn tâm lý…
Vẫn còn trẻ VTN nhiễm HIV chưa được phát hiện
Số liệu được Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) công bố cho thấy, năm 2021, có gần 4 ngàn trẻ đang được điều trị ARV, trong đó 52% trẻ trong độ tuổi 10-16. Riêng trong năm 2021, cả nước phát hiện 16 trẻ nhiễm HIV. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn trẻ nhiễm HIV chưa được phát hiện do các bà mẹ không được tham gia chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Theo BS NGUYỄN XUÂN QUANG, Trưởng khoa Phòng chống HIV/AIDS, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, hiện trẻ em nhiễm HIV tại Đồng Nai chủ yếu được điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai. Riêng H.Long Thành đang điều trị cho một vài trường hợp (giai đoạn 2019-2021, H.Long Thành phát hiện 5 trường hợp nhiễm HIV trong độ tuổi trẻ VTN). Khoa HIV/AIDS Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh chủ yếu điều trị HIV cho người lớn.
Theo báo cáo của UNAIDS (Chương trình Phối hợp của LHQ về HIV/AIDS), trên thế giới, 20% trẻ có HIV không được chẩn đoán tình trạng nhiễm, trong đó 40% trẻ từ 10-14 tuổi.
Ngoài nguyên nhân chính là trẻ bị lây nhiễm HIV từ mẹ thì nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trẻ VTN nhiễm HIV là quan hệ tình dục sớm và không an toàn. Theo khảo sát hành vi sức khỏe học sinh toàn cầu tại Việt Nam năm 2019 (số liệu được Bộ Y tế công bố tháng 4-2022), tỷ lệ quan hệ tình dục trong học sinh giảm nhẹ, nhưng tỷ lệ quan hệ tình dục trước 14 tuổi tăng gấp 2 lần, từ 1,45% năm 2013 tăng lên 3,51% vào năm 2019. Các chuyên gia y tế đã cảnh báo nguy cơ gia tăng số ca nhiễm HIV mới trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) trẻ tuổi (15-19 tuổi).
So với người lớn, công tác dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV cho trẻ VTN gặp nhiều khó khăn hơn. Một số yếu tố liên quan đến việc tuân thủ điều trị không tốt ở nhóm trẻ VTN như: hạn chế kiến thức về HIV, kỳ thị và phân biệt đối xử, các vấn đề liên quan đến trường học như lịch học trùng với lịch khám, nhận thức về tình trạng nhiễm HIV của bản thân, các vấn đề liên quan đến uống thuốc (quên thuốc, ngại uống thuốc..), trẻ chưa được chuẩn bị tốt cho việc bộc lộ tình trạng nhiễm HIV… Bên cạnh đó, tỷ lệ ức chế tải lượng virus thấp hơn ở người lớn (trẻ em 91,2%; người lớn 97%).
Cần nhiều hoạt động hỗ trợ cho công tác điều trị
Tháng 12-2021, Bộ Y tế đã ra Quyết định số 5968/QĐ-BYT về việc ban hành hướng dẫn điều trị và chăm sóc HIV/AIDS. Chương 6 của quyết định này quy định rõ về dự phòng, chăm sóc và hỗ trợ trẻ VTN.
Theo đó, công tác dự phòng, chăm sóc và hỗ trợ điều trị HIV cho trẻ gồm nhiều hoạt động như: tư vấn bộc lộ tình trạng nhiễm HIV, chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục, chuyển tiếp trẻ VTN sang giai đoạn trưởng thành và sang dịch vụ chăm sóc sức khỏe người lớn, hỗ trợ tuân thủ và duy trì điều trị ARV cho trẻ VTN nhiễm HIV.
Trong đó, mục tiêu của hoạt động tư vấn bộc lộ tình trạng nhiễm HIV giúp trẻ hiểu đúng về tình trạng nhiễm HIV một cách tích cực; trang bị kiến thức, kỹ năng để trẻ tự bộc lộ tình trạng nhiễm HIV với người khác; giáo dục trẻ tự chăm sóc, tuân thủ điều trị ARV, không làm lây truyền HIV cho người khác.
Mục tiêu của hoạt động chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục là giúp trẻ nhận biết tình cảm của bản thân và biết cách tự kiểm soát, xử trí; giúp trẻ có quyết định đúng đắn về hành vi quan hệ tình dục, đưa ra các quyết định tích cực liên quan đến sức khỏe sinh sản, tình dục và dự phòng nhiễm HIV.
Để công tác điều trị HIV cho trẻ VTN đạt hiệu quả, mô hình chăm sóc điều trị HIV/AIDS cho trẻ VTN cần được thiết kế thân thiện, riêng tư, đảm bảo tính bí mật cho trẻ, đồng thời phải dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh cụ thể của trẻ.