Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai là chiến lược mang tính nền tảng
Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học (Quyết định số 2371/QĐ-TTg ngày 27-10-2025 của Thủ tướng Chính Phủ) được xem là bước đi nền tảng nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế trong nhiều thập kỷ tới. Đây không chỉ là thay đổi về chương trình học, mà là định hướng chiến lược mang tầm quốc gia.

Một tiết học tại Trường TH Lý Tự Trong, Đà Nẵng.
Chuẩn bị nguồn lực cho hội nhập quốc tế
Đánh giá về Đề án này, cô Trần Thị Lệ - Hiệu trưởng Trường Tiểu học (TH) Lý Tự Trọng (Đà Nẵng) cho rằng, đây là chủ trương phù hợp và cần thiết, là bước chuyển mạnh mẽ trong chính sách giáo dục ngoại ngữ của nước ta, góp phần phát triển giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu của thời đại kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, đề án đặt ra những mục tiêu cụ thể cho từng cấp học và giai đoạn thể hiện tầm nhìn dài hạn của Chính phủ.Để đề án thành công ở cấp TH, cần có sự chuẩn bị và triển khai đồng bộ các yếu tố như nhân lực và chất lượng giáo viên; cơ sở vật chất, thiết bị, học liệu; giải pháp quản lý, kiểm tra đánh giá, sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình. Những nội dung này, đều đã được Đề án chú trọng đưa ra lộ trình đầu tư theo giai đoạn.
“Nếu các giải pháp được triển khai đồng bộ ở các địa phương thì việc dạy tiếng Anh không còn lo ngại những thách thức. Tuy nhiên, trong thực tế các trường trung tâm, vùng thành thị sẽ thuận lợi hơn nhiều so với các trường vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, tùy điều kiện của mỗi địa phương, mỗi nhà trường, nhà quản lý theo sát thực tiễn để xây dựng kế hoạch triển khai, đặt mục tiêu phù hợp với đối tượng học sinh (HS) của mình sao cho phát huy tốt nhất điểm mạnh của cở sở giáo dục đang có, đồng thời tạo được sự đồng thuận của phụ huynh và xã hội”- cô Trần Thị Lệ nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, thầy Trần Bảo Tú - Hiệu trưởng Trường TH Nguyễn Bá Ngọc (xã Trà My, TP Đà Nẵng) cho rằng chủ trương này mở ra cơ hội tiếp cận tri thức toàn cầu cho mọi học sinh, đặc biệt là trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số(DTTS), những nơi thường gặp nhiều hạn chế trong điều kiện học tập.Theo thầy Tú, đây là bước hiện thực hóa quan điểm “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”, phù hợp với định hướng của Trung ương và Chính phủ về xây dựng nền giáo dục hiện đại, công bằng và hội nhập.
Tuy nhiên, từ thực tế của trường với phần lớn HS là người DTTS, rào cản ngôn ngữ và văn hóa là thách thức lớn. Ở nhiều vùng miền núi, HS phải sử dụng tới ba ngôn ngữ gồm tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt và tiếng Anh, điều này có thể gây áp lực, nhất là với HS lớp 1, lớp 2. Nếu không được tổ chức một cách khoa học, việc tiếp cận tiếng Anh sớm có thể dẫn tới rối loạn ngôn ngữ. Vì vậy, thầy Tú nêu quan điểm Đề án cần linh hoạt hơn về mục tiêu, bảo đảm HS có nền tảng tiếng Việt vững vàng trước khi tăng cường yêu cầu về tiếng Anh. Đồng thời, cần ưu tiên đào tạo giáo viên bản địa, những người hiểu văn hóa, tâm lý và tiếng mẹ đẻ của HS để việc học ngoại ngữ trở nên tự nhiên, phù hợp.
Về triển khai thực tế, thầy Tú cho rằng cần thí điểm và đánh giá kỹ tác động trước khi áp dụng rộng rãi. Những bài học từ Đề án Ngoại ngữ Quốc gia trước đây cần được phân tích để tránh lặp lại hạn chế và tối ưu hóa nguồn lực.
Bà Nguyễn Thị Kiều Ngân -đại diện Ban Giám hiệu Trường Tiểu học & THCS FPT Đà Nẵng nhìn nhận, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai không đơn giản là tăng số tiết học. Đây là chiến lược đổi mới căn bản nhằm chuẩn bị cho tương lai của đất nước, trong bối cảnh công nghệ, kinh tế và ngoại giao toàn cầu đều vận hành bằng tiếng Anh. Mục tiêu này hoàn toàn khả thi khi đi kèm một hệ thống giải pháp đồng bộ: Đầu tư đủ nguồn lực, đào tạo bài bản, giảm áp lực thi cử và xây dựng môi trường sử dụng tiếng Anh thực chất trong đời sống hằng ngày.
Xây dựng môi trường song ngữ thực chất
Theo thầy Trần Bảo Tú, việc xây dựng môi trường song ngữ thực chất là nền tảng đảm bảo cho việc đưa ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng đạt hiệu quả. Hiện nay, tại Trường TH Nguyễn Bá Ngọc, các hoạt động như tạo môi trường giao tiếp tự nhiên, phát triển câu lạc bộ tiếng Anh, bổ sung phòng học ngoại ngữ, tăng cường giao lưu với giáo viên nước ngoài đã được thực hiện. Đây được xem là bước chuẩn bị để HS vùng núi làm quen với tiếng Anh một cách tự tin, không áp lực.
Nhằm xây dựng môi trường song ngữ thực chất, Trường TH Lý Tự Trọng hiện có 32 lớp, được biên chế 5 giáo viên tiếng Anh, đảm bảo đủ giáo viên để dạy cho HS từ lớp 1 đến lớp 5 theo khung chương trình bậc tiểu học được Bộ GD-ĐT quy định. HS từ lớp 3 đến lớp 5 học chương trình bắt buộc mỗi tuần 4 tiết theo giáo trình Glubal Success của NXB Giáo dục Việt Nam; HS lớp1 và lớp 2 học chương trình tiếng Anh tự chọn mỗi tuần 2 tiết chính khóa và 1 tiết tăng cường cũng theo giáo trình Glubal Success.
Ngoài ra, vào chiều thứ Sáu hằng tuần, nhà trường tổ chức các lớp học tiếng Anh với giáo viên người nước ngoài theo hình thức xã hội hóa giáo dục. Đây là chương trình dạy học ngoài giờ theo đăng ký trên nhu cầu tự nguyện của HS, có thu phí theo đề án được lãnh đạo Sở GD-ĐT và lãnh đạo địa phương phê duyệt. Hiện tại, số HS đăng ký học vào chiều thứ sáu khoảng 50% số HS toàn trường.
Theo cô Trần Thị Lệ, trường có đủ các điều kiện để đáp ứng yêu cầu dạy tiếng Anh như: trang bị đủ tivi ở các lớp học, có hệ thống mạng Internet phủ sóng toàn trường. Nguồn học liệu được NXB Giáo dục hỗ trợ đầy đủ theo giáo trình được trang bị. Giáo viên được tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên nên tiếp cận khá tốt với những đổi mới về chương trình và phương pháp giảng dạy. Nhà trường đã và đang triển khai tốt việc dạy tiếng Anh cho HS tại trường.
Còn tại Trường Tiểu học & THCS FPT Đà Nẵng, việc xây dựng môi trường song ngữ đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Trường hiện có thư viện tiếng Anh được đầu tư với hàng nghìn đầu sách và các góc đọc theo chủ đề. Hoạt động kể chuyện, “Reading Time” diễn ra hằng tuần, hình thành thói quen đọc tự nhiên. HS giao tiếp với giáo viên bản ngữ hằng ngày, từ chào hỏi đến thảo luận nhóm. Giáo viên nước ngoài tham gia workshop, trại hè, hoạt động ngoại khóa và sự kiện văn hóa. Các hoạt động như debate, storytelling, mini project hay role-play giúp học sinh luyện tập trong tình huống thật. Mô hình English Zones tạo thói quen “bật tiếng Anh” khi bước vào không gian chuyên biệt...Nhờ vậy, tiếng Anh trở thành ngôn ngữ sử dụng thực tế, không chỉ giới hạn trong lớp học…
Theo bà Ngân, chất lượng đội ngũ là nền tảng của Đề án, kèm theo đó là các yêu cầu quan trọng khác…Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả cần có lộ trình phù hợp với đặc thù từng vùng, nhất là với HS DTTS, nơi yêu cầu củng cố tiếng Việt phải được đặt lên hàng đầu.
Có thể nói, để đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai thì HS phải là trung tâm, môi trường song ngữ thực chất quyết định khả năng học tập và đội ngũ giáo viên là trụ cột. Khi những điều kiện này được đáp ứng, việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai không chỉ là chính sách mà sẽ đi vào đời sống, giúp HS tự tin và hội nhập.












