Em ruột ở nước ngoài được nhận di sản thừa kế của anh trai trong trường hợp nào?

*Bạn đọc hỏi: anh Nguyễn Văn M. hiện đang sinh sống tại Mỹ hỏi: Gia đình tôi có 4 người con là anh trai tôi Nguyễn Văn B., chị gái Nguyễn Thị N., em gái Nguyễn Thị Th. và tôi. Tháng trước, anh trai tôi là Nguyễn Văn B. đã mất và để lại một sổ tiết kiệm tại Ngân hàng Agribank gần 2 tỷ đồng. Khi mất, anh không để lại di chúc. Anh tôi sống một mình không có vợ con, bố mẹ tôi cũng đã mất trước anh nhiều năm. Hiện tại chị gái tôi là bà Nguyễn Thị N. muốn một mình thừa kế số tiền mà anh tôi để lại với lý do là tôi và em gái tôi đã định cư ở nước ngoài nhiều năm, không chăm sóc anh trai. Tuy nhiên, chị gái tôi nghiện cờ bạc nên tôi không muốn chị tôi đổ số tiền anh tôi vất vả tích góp được vào cờ bạc. Cho tôi hỏi trong trường hợp này tôi và em gái tôi có được nhận thừa kế không? Trong trường hợp chị gái tôi không muốn chia di sản thừa kế thì tôi có thể làm thế nào?

Luật sư Đăng Văn Vương.

Luật sư Đăng Văn Vương.

*Luật sư Đặng Văn Vương – Phó trưởng Văn phòng Luật sư Phong & Partners, trả lời:

Vì nhiều lý do khác nhau như cơ hội việc làm, điều kiện sống hoặc đoàn tụ gia đình, nhiều người Việt Nam đã lựa chọn định cư và làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, việc này không làm mất đi các quyền lợi cơ bản của họ theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhà nước Việt Nam vẫn công nhận và bảo vệ quyền lợi của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bao gồm quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế, và các quyền lợi liên quan khác.

Em ruột có quyền được nhận di sản thừa kế hay không?

Do anh trai anh qua đời mà không để lại di chúc, theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015, di sản thừa kế của anh trai anh sẽ được phân chia theo pháp luật. Cụ thể những người thừa kế di sản theo pháp luật được quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Theo quy định trên, những người ở hàng thừa kế thứ hai chỉ có quyền nhận thừa kế di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, thuộc trường hợp không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc những người đó từ chối nhận di sản. Hàng thừa kế thứ ba áp dụng tương tự. Như vậy, theo quy định pháp luật thì em ruột thuộc hàng thừa kế thứ hai nên chỉ được thừa kế di sản nếu hàng thừa kế thứ nhất như vợ, chồng, cha, mẹ (cha, mẹ đẻ và cha, mẹ nuôi), con (con đẻ và con nuôi) của người anh không còn ai. Trong trường hợp còn người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, các em ruột sẽ không có quyền hưởng di sản thừa kế từ người anh.

Theo thông tin anh M. đã cung cấp, người anh trai của anh không có vợ con và cha mẹ của các anh cũng đã mất. Do đó, anh, chị N. và chị Th. là các em ruột nên thuộc hàng thừa kế thứ hai sẽ có quyền nhận di sản thừa kế từ người anh.

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài lâu năm có được nhận di sản thừa kế hay không?

Điều 609, Điều 610, Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:

Điều 609. Quyền thừa kế

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 610. Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật

Từ các quy định nêu trên cho thấy, pháp luật Việt Nam đảm bảo sự bình đẳng trong quyền thừa kế. Pháp luật không phân biệt giữa công dân Việt Nam trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài trong vấn đề hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Do đó, dù anh M và chị Th đã ở nước ngoài lâu năm thì anh chị vẫn có quyền nhận thừa kế theo pháp luật tại Việt Nam theo quy định pháp luật.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về những người không được quyền hưởng bao gồm:

Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Như vậy, những người thuộc các trường hợp này sẽ bị tước quyền hưởng di sản thừa kế. Đây là một trong những biện pháp nhằm bảo đảm tính công bằng, đạo đức trong việc phân chia di sản và tránh những hành vi trái đạo đức hoặc vi phạm pháp luật.

Dựa trên thông tin anh M. đã cung cấp, chúng tôi hiểu rằng anh và chị Th. không trực tiếp chăm sóc anh trai mình, người để lại di sản. Tuy nhiên, theo các quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015, việc không trực tiếp chăm sóc không phải là căn cứ để tước quyền hưởng di sản. Do đó, anh chị hoàn toàn có quyền thừa kế nếu không có bằng chứng cho thấy anh chị vi phạm các quy định về quyền hưởng di sản.

3. Hướng giải quyết

3.1 Ưu tiên phương án thương lượng, hòa giải:

Đặc thù trong tranh chấp về thừa kế là liên quan đến những người cùng quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân. Vậy nên, ưu tiên tối đa thương lượng, hòa giải để giải quyết tranh chấp để vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng của các anh chị em, vừa giữ gìn tình cảm gia đình. Anh M. và các chị em của anh có thể tự thương lượng hoặc nhờ bên thứ 3 (người có chuyên môn pháp luật được ba chị em anh cùng tin tưởng; hoặc luật sư uy tín) giải thích pháp luật và làm trung gian hòa giải để nâng cao khả năng đạt được thống nhất chung.

Sau khi thống nhất thì các chị em anh thực hiện thủ tục Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế tại Văn phòng công chứng. Sau khi có Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng thì các anh chị em mang đến ngân hàng để thực hiện thủ tục nhận di sản thừa kế đối với số tiền gửi tiết kiệm của anh B. theo thủ tục của ngân hàng.

3.2 Phương án khởi kiện:

Trong trường hợp đã nỗ lực thực hiện việc thương lượng hoặc hòa giải nhưng giữa anh chị và chị gái không thống nhất được việc chia thừa kế theo di chúc thì để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, anh có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu phân chia di sản thừa kế theo pháp luật đối với tài sản mà anh của anh để lại.

Chuyên mục này có sự hợp tác về chuyên môn của Văn phòng Luật sư Phong & Partners. Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3822.678 - 0905.102.425

Nguồn CAĐN: https://cadn.com.vn/em-ruot-o-nuoc-ngoai-duoc-nhan-di-san-thua-ke-cua-anh-trai-trong-truong-hop-nao-post304842.html