EVN nâng cao độ khả dụng nhiệt điện than bảo đảm yêu cầu cấp điện
Do tình hình thủy văn khó khăn và việc huy động nguồn điện từ các nhà máy thủy điện sụt giảm, các nhà máy nhiệt điện than (NMNĐ) than sẽ được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) huy động ở mức cao. Vì vậy việc nâng cao tính sẵn sàng, độ khả dụng của thiết bị tổ máy nhiệt điện luôn là một trong những yêu cầu quan trọng thời điểm hiện nay.
Theo điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII điều chỉnh), đến năm 2020, tổng công suất các nhà máy nhiệt điện than khoảng 26.000 MW (chiếm 42,7% công suất nguồn toàn hệ thống), sản xuất khoảng 131 tỷ kWh (chiếm 49,3% sản lượng điện).
Theo đó, từ 2011, hàng loạt NMNĐ than công suất lớn từ 600 đến 1.200 MW trên cả nước liên tục được đưa vào vận hành. Nhiệt điện than ngày càng khẳng định vai trò là nguồn điện chủ lực, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Ông Tạ Tuấn Anh, Phó ban Kỹ thuật – Sản xuất Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, Tập đoàn đang quản lý vận hành 12 NMNĐ than. Năm 2020, do tình hình thủy văn nhiều khó khăn, các NMNĐ than sẽ được huy động vận hành tới hơn 7.000 giờ/năm.
“Do đó, cần thiết có các giải pháp hữu hiệu để nâng cao tính sẵn sàng, độ khả dụng của thiết bị, tổ máy nhiệt điện, đồng thời gắn sản xuất với bảo vệ môi trường”, Phó ban Kỹ thuật – Sản xuất EVN nhấn mạnh.
Đại diện Ban Kỹ thuật – Sản xuất EVN cũng cho biết hiện nay trong toàn Tập đoàn, 100% các nhà máy,công ty nhiệt điện đã xây dựng và triển khai Đề án tiêu thụ tro xỉ, thạch cao theo mẫu Đề án của Tập đoàn ban hành.
Các nhà máy, công ty nhiệt điện trực thuộc EVN cũng đã kí hợp đồng tiêu thụ tro xỉ, thạch cao ngắn hạn, dài hạn với các đối tác nhằm giảm thiểu tác động tới môi trường trong quá trình sản xuất.Theo số liệu của EVN, tổng khối lượng tro, xỉ của các NMNĐ than thuộc Tập đoàn trong năm 2019 là 8,5 triệu tấn, đã tiêu thụ được 5,6 triệu tấn. Số còn lại được lưu bãi chờ tiêu thụ nốt.
Trong bối cảnh các NMNĐ than luôn được huy động ở mức cao, yêu cầu thường xuyên được EVN đặt ra đối với các nhà máy này là tính sẵn sàng, độ khả dụng của các thiết bị tổ máy nhiệt điện và bảo đảm an toàn trong quá trình vận hành, sản xuất.
Được biết, hiện nay lãnh đạo EVN yêu cầu độ khả dụng của các NMNĐ than thuộc Tập đoàn phải đạt 97% nhưng trong thực tế vận hành, để đáp ứng yêu cầu huy động của hệ thống, nhiều tổ máy nhiệt điện còn đạt độ khả dụng cao hơn.
Đánh giá của EVN cho thấy,cùng với sự phát triển cả về số lượng nhà máy và quy mô công suất, công nghệ nhiệt điện than cũng ngày càng hiện đại, cho phép vận hành các tổ máy với hiệu suất, độ an toàn và tính kinh tế cao. Nhiều NMNĐ than được đầu tư công nghệ đốt than phun với thông số hơi cận tới hạn, siêu tới hạn... Việt Nam cũng đã ứng dụng thành công hệ thống điều khiển và tự động hóa các NMNĐ than.
Đặc biệt, các NMNĐ than được đầu tư công nghệ xử lý môi trường hiện đại, đạt hiệu quả cao như: Hệ thống ESP lọc bụi tĩnh điện, khử SOx, NOx…, đáp ứng các quy định theo tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam. Vấn đề đảm bảo môi trường trong quá trình vận hành NMNĐ than ở Việt Nam ngày càng được quan tâm và thực hiện hiệu quả.