Gắn sinh kế với bảo tồn: Hướng đi bền vững ở Vườn quốc gia Xuân Thủy

Từ những cánh rừng sú, vẹt bạt ngàn nơi cửa biển và những bãi triều lấp lánh phù sa, các mô hình sinh kế như nuôi ong lấy mật, khai thác thủy sản 'thuận thiên' hay du lịch sinh thái cộng đồng đã và đang tạo ra sinh kế ổn định cho nhiều người dân vùng đệm khu vực Vườn quốc gia Xuân Thủy, góp phần bảo vệ hệ sinh thái đất ngập nước quý giá này.

Hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Vườn quốc gia Xuân Thủy vừa tạo thu nhập, vừa giữ gìn “nguồn vốn tự nhiên” cho thế hệ mai sau.

Hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Vườn quốc gia Xuân Thủy vừa tạo thu nhập, vừa giữ gìn “nguồn vốn tự nhiên” cho thế hệ mai sau.

Vườn quốc gia Xuân Thủy có diện tích tự nhiên hơn 7.100 ha, diện tích vùng đệm khoảng 8.000 ha, trải rộng trên địa bàn các xã Giao Minh, Giao Hòa và Giao Phúc (tỉnh Ninh Bình). Đây là khu Ramsar đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam Á, vùng lõi của Khu Dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng, đồng thời là “ga chim” quan trọng trên tuyến di cư Úc-Đông Á với hơn 220 loài chim, trong đó nhiều loài nguy cấp toàn cầu. Năm 2025 nơi đây được vinh danh là Vườn Di sản ASEAN cho thấy những nỗ lực trong việc bảo tồn và phát triển hệ sinh thái Vườn đúng hướng, hiệu quả.

Đồng chí Phạm Vũ Ánh, Phó Giám đốc Vườn quốc gia Xuân Thủy nhấn mạnh: “Ban lãnh đạo Vườn luôn xác định, nếu bảo tồn chỉ dừng ở hàng rào, biển cấm thì không thể bền vững. Bảo tồn muốn thành công phải gắn chặt với sinh kế, để người dân thấy rõ những lợi ích lâu dài từ rừng mang lại, từ đó tự giác bảo vệ rừng”.

Với định hướng đó, suốt nhiều năm qua, Vườn quốc gia Xuân Thủy đã kiên trì xây dựng các mô hình sinh kế dựa vào hệ sinh thái rừng ngập mặn vừa tạo thu nhập, vừa giữ gìn “nguồn vốn tự nhiên” cho thế hệ mai sau.

Một trong những hướng phát triển kinh tế hiệu quả tại Vườn quốc gia Xuân Thủy phải kể đến là nghề nuôi ong lấy mật. Theo lãnh đạo Vườn, mỗi năm, từ tháng 4 đến tháng 8, khi hoa sú, vẹt nở rộ, những cánh rừng ngập mặn Xuân Thủy lại trở thành “đại ngàn mật ngọt”. Nghề nuôi ong ngoại khai thác mật hoa rừng sú vẹt đã xuất hiện ở đây từ những năm 1980 và ngày càng phát triển theo hướng chuyên nghiệp.

Hiện toàn khu vực có hơn 20 hộ nuôi ong với gần 6.000 đàn, sản lượng mật đạt 120 tấn/vụ, thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/đàn/năm. Nhiều hộ nuôi quy mô lớn 300-500 đàn, tạo việc làm ổn định cho lao động địa phương.

Lãnh đạo Vườn quốc gia Xuân Thủy tuyên truyền, hướng dẫn người dân phát triển kinh tế gắn với bảo vệ rừng.

Lãnh đạo Vườn quốc gia Xuân Thủy tuyên truyền, hướng dẫn người dân phát triển kinh tế gắn với bảo vệ rừng.

Ông Nguyễn Văn Hậu, một hộ nuôi ong lâu năm ở vùng đệm chia sẻ: “Nuôi ong ở rừng Xuân Thủy rất thuận lợi vì hoa tự nhiên, mật thơm, sánh. Quan trọng nhất là chúng tôi hiểu rằng mỗi tán sú, vẹt chính là “nguồn sống” của đàn ong. Vì vậy không ai dám phá rừng mà còn chủ động trồng bổ sung sú vẹt trong quá trình canh tác.”

Ngoài ra, mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến gắn với bảo vệ rừng ngập mặn cũng đã và đang là hướng đi cho thấy hiệu quả “kép” từ việc phát triển sinh kế bền vững gắn với bảo tồn thiên nhiên nơi đây.

Đồng chí Phạm Vũ Ánh, Phó Giám đốc Vườn quốc gia Xuân Thủy chia sẻ thêm: “Với sự hỗ trợ của các tổ chức phi Chính phủ, Vườn đã phối hợp cùng chính quyền địa phương hỗ trợ người dân xây dựng mô hình “tôm sinh thái-rừng ngập mặn” với nguyên tắc không chặt phá rừng, không hóa chất, không thức ăn công nghiệp, tận dụng hoàn toàn nguồn thức ăn tự nhiên dưới tán rừng. Đến nay, diện tích nuôi tôm quảng canh cải tiến đạt khoảng 1.000 ha. Sau mỗi vụ nuôi (từ khoảng tháng 3 đến tháng 10) diện tích ao nuôi được để nghỉ, rừng phục hồi, hệ sinh thái được tái tạo đồng thời cũng tạo ra nguồn thức ăn tự nhiên cho chim”.

Theo ước tính, mô hình này cho năng suất đạt 200-300 kg/ha/năm, lợi nhuận 50-60 triệu đồng/ha, chi phí thấp, rủi ro ít. Đặc biệt, trong giai đoạn 2023-2025, dự án nuôi tôm hai giai đoạn đã giúp nâng năng suất lên trên 400 kg/ha/năm, lợi nhuận tăng hơn 10% so với phương thức truyền thống.

Với giá trị tự nhiên độc đáo, rừng ngập mặn nơi đây được ví như “vườn ươm” của nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. Thay vì khai thác tận diệt, người dân nơi đây được hướng dẫn khai thác thủy sản bền vững, “thuận thiên” dưới tán rừng, dựa theo chu kỳ thủy triều, mùa sinh sản và điều kiện tự nhiên.

Hiện trong khu vực có khoảng 400-600 lao động địa phương thường xuyên tham gia các hoạt động khai thác thủ công như cào nghêu, bắt cua, tép, cá bống bớp… Thu nhập bình quân 5-6 triệu đồng/người/tháng, nhiều hộ kết hợp thu mua, sơ chế có thể đạt thu nhập trên 100 triệu đồng/năm.

Du khách tham quan, trải nghiệm dịch vụ tại khu vực Vườn quốc gia Xuân Thủy.

Du khách tham quan, trải nghiệm dịch vụ tại khu vực Vườn quốc gia Xuân Thủy.

Không dừng lại ở sản xuất, những năm gần đây, mô hình du lịch sinh thái cộng đồng gắn với trải nghiệm thiên nhiên tại Vườn quốc gia Xuân Thủy cũng được đông đảo du khách lựa chọn, góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân và thúc đẩy khai thác rừng hiệu quả.

Du khách đến đây không chỉ tham quan rừng ngập mặn, ngắm chim di trú, check-in ở cửa Ba Lạt - tọa độ được mệnh danh là “điểm cuối sông Hồng” mà được còn trải nghiệm đời sống làng quê ven biển, hệ thống nhà thờ, đền chùa đặc sắc và thưởng thức ẩm thực, hải sản tươi ngon, độc đáo.

Chị Trần Thị Thanh Huyền, nhân viên Phòng Giáo dục và Dịch vụ môi trường, Vườn quốc gia Xuân Thủy cho biết: Mỗi năm Vườn đón khoảng 20.000-25.000 lượt khách, cao điểm lễ 30/4 - 1/5 lên tới 4.500 lượt/ngày. Ngoài khách nội địa, những năm gần đây Vườn đón rất nhiều khách quốc tế đến tham quan, nghiên cứu. Với nhiệm vụ là hướng dẫn viên, ngoài việc giới thiệu cảnh quan thiên nhiên, giá trị độc đáo đến du khách tôi còn tích cực tuyên truyền, hướng dẫn các hộ dân khai thác du lịch bền vững, không xả rác bừa bãi, hạn chế dùng đồ nhựa, túi nilon,… để bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp.

Nhiều hộ gia đình đầu tư cơ sở lưu trú, dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu của du khách khi về Vườn quốc gia Xuân Thủy tham quan.

Nhiều hộ gia đình đầu tư cơ sở lưu trú, dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu của du khách khi về Vườn quốc gia Xuân Thủy tham quan.

Là một trong những hộ gắn bó và phát triển sinh kế từ rừng gần 20 năm, chị Đinh Thị Hương, xóm 3, xã Giao Minh cho biết: “Hiện nay, gia đình tôi quản lý và khai thác khoảng 4 ha ao nuôi tôm, cua, cá theo hình thức quảng canh; đồng thời phát triển dịch vụ ăn uống từ chính nguồn thủy sản này. Bên cạnh đó, chúng tôi còn cung cấp một số đặc sản địa phương như mật ong sú vẹt; dịch vụ tàu vận chuyển phục vụ khách tham quan trong khu vực rừng, kết hợp mô hình homestay và tour trải nghiệm. Nhờ đa dạng hóa sinh kế, mỗi năm gia đình có nguồn thu nhập ổn định, đạt khoảng 300-400 triệu đồng. Vào mùa hè, lượng khách khá đông, có thể đón đến 30 đoàn, còn mùa đông chủ yếu phục vụ khách quốc tế.”

Từ thực tiễn ở Xuân Thủy cho thấy, khi người dân được trao cơ hội sinh kế gắn chặt với tài nguyên rừng, họ không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà còn trở thành “người gác rừng” tận tâm và bền bỉ nhất. Những cánh rừng sú, vẹt vì thế luôn đứng vững trước sóng gió cửa biển, tạo sinh kế, nuôi dưỡng khát vọng no ấm cho cộng đồng vùng đệm.

Gắn bảo tồn với phát triển, lấy con người làm trung tâm và thiên nhiên làm nền tảng, Vườn quốc gia Xuân Thủy đang từng bước khẳng định một hướng đi đúng đắn, hài hòa giữa lợi ích trước mắt và giá trị lâu dài. Đó cũng là gợi mở quan trọng cho bài toán khai thác và phát triển bền vững ở những vùng đất ngập nước, nơi mỗi cánh rừng được giữ gìn hôm nay chính là “nguồn vốn xanh” cho tương lai mai sau.

Bài, ảnh: Minh Hải

Nguồn Ninh Bình: https://baoninhbinh.org.vn/gan-sinh-ke-voi-bao-ton-huong-di-ben-vung-o-vuon-quoc-gia-xuan-thuy-251223155653775.html