Gặp lại người anh hùng - 'chiếc trụ chèo' trên sông Mã

Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt, từ thượng nguồn sông Mã, những bè luồng, bè gỗ xuôi về đồng bằng được ví như những 'viên đạn' từ hậu phương. Chúng không chỉ tiếp sức cho tiền tuyến bằng gỗ dựng lán trại, cầu phao, công sự chiến đấu, mà còn ghi dấu mồ hôi, máu và cả sự hy sinh của những con người thầm lặng. Những người công nhân chèo bè sông Mã ngày ấy đã viết nên một bản anh hùng ca lấp lánh vẻ đẹp của lao động hòa quyện cùng chiến đấu. Trong số đó có người Anh hùng Lao động Hà Văn Dân.

Ông Hà Văn Dân, xã Hồi Xuân giới thiệu về các kỷ vật. Ảnh: Linh Sơn

Ông Hà Văn Dân, xã Hồi Xuân giới thiệu về các kỷ vật. Ảnh: Linh Sơn

Chúng tôi tìm gặp ông Hà Văn Dân, người dân tộc Thái, 78 tuổi, xã Hồi Xuân, trong một sáng thu se lạnh. Vừa trải qua một cơn bạo bệnh dài ngày, sức khỏe ông đã yếu đi nhiều. Thế nhưng, phía sau đôi mắt đã nhuốm màu thời gian, những ký ức oanh liệt của một thời tuổi trẻ vẫn rực sáng như mới hôm qua.

Câu chuyện của ông bắt đầu từ những ngày thơ bé côi cút. Năm mới 5 tuổi, Dân đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải nương nhờ họ hàng, bà con bản làng. Đến tuổi 17, cậu thanh niên ấy vẫn bữa đói bữa no. Ai thương thì cho củ khoai, củ sắn, ai thuê gì, Dân đều gắng làm với sự chịu khó và tính nết hiền lành.

Ngày 12/10/1964 đã thành dấu mốc đổi đời. Hôm đó, cậu mang bó dây song bện đến bán cho cán bộ lâm nghiệp. Thấy cậu gầy gò, hiền lành, họ thương tình gọi vào bếp cho bữa cơm no. Một cán bộ nhìn cậu rồi bảo: “Dân ơi, thôi mày ở lại đây, làm cùng anh em, vừa học nghề, vừa có cơm ăn”. Từ hôm ấy, Hà Văn Dân trở thành công nhân Công ty Lâm nghiệp Quan Hóa. Suốt một năm, ông kiên trì học buộc dây, xoắn lạt, kết bè, chèo thuyền... rồi mới chính thức nhận nhiệm vụ xuôi bè gỗ trên sông Mã.

Đó là những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào cao trào. Mỗi cây luồng, khúc gỗ từ miền Tây Thanh Hóa đều là “đạn dược” của hậu phương, gấp gáp đưa ra tiền tuyến, phục vụ chiến trường. Đơn vị của ông thu gom lâm sản từ sông Lò, sông Luồng, sông Mã rồi tập kết tại Hồi Xuân, xuôi về Cửa Hà, Hàm Rồng, Mục Sơn, Lèn... Ai từng đi sông Mã đều khiếp sợ ghềnh thác, với những cái tên như Chiêng, Cả, Long - nơi vách đá dựng đứng, nước réo cuồn cuộn như muốn nuốt chửng tất cả. Ấy vậy mà, hết bè này đến bè khác, với hàng chục khối gỗ, hàng trăm cây luồng, ông Dân cùng đồng đội vẫn vượt qua, chỉ với mái chèo, sợi dây và đôi bàn tay chai sạn. Ban ngày thì bom Mỹ quần thảo, họ phải lặng lẽ xuôi bè trong bóng đêm, giữa lúc cái chết rình rập. Có đồng đội ngã xuống, máu hòa vào dòng nước nhưng chưa ai một lần buông chèo. Hà Văn Dân từng khát khao cầm súng, nhưng ông hiểu, bám trụ trên bè, giữ cho bè gỗ xuôi về chiến trường cũng là cách đánh giặc, âm thầm mà kiên cường.

Một trong những ký ức sâu đậm nhất của ông Dân là trận lũ năm 1965. Hôm ấy, mưa như trút nước, sông Mã dậy sóng, cuồn cuộn cuốn phăng mọi thứ. Đang tránh mưa trong lán nhỏ, ông nghe tiếng ầm ào lạ lẫm. Bè gỗ 12m3 vừa đứt dây, lao thẳng ra giữa dòng. Không kịp nghĩ ngợi, ông lao xuống nước, bám chặt đầu bè như một cái trụ sống. Đồng đội là anh Dụng ghì mái chèo, tì lên vai và cổ ông để điều khiển hướng đi. Hai thân hình bé nhỏ chống chọi với dòng lũ dữ suốt nhiều giờ. Cuối cùng, bè được giữ chặt vào bờ, còn cơ thể ông tê buốt vì lạnh. Nhưng ông không chịu buông. Khi anh Dụng lên bờ gọi cứu viện thì nước lũ đã chặn mất đường. Hai người công nhân trẻ đành cắn răng chịu đói rét, ngâm mình giữa dòng lũ suốt hai ngày đêm, cho đến khi đơn vị tìm thấy.

Câu chuyện ấy sau này được một nhà báo viết lại, đăng trên Báo Tiền Phong. Bác Hồ đọc được, gửi tặng ông Dân huy hiệu cao quý cùng lời khen ngợi. Nhắc lại ký ức, đôi mắt ông bừng sáng xen lẫn xúc động: “Đó là phần thưởng lớn nhất đời tôi, vì đã dũng cảm giữ được tài sản của Nhà nước”.

Năm 1966, ông lại một lần nữa đối diện ranh giới sinh tử. Khi đoàn công nhân gồm 10 người chuyển bè gỗ xuôi dòng từ Hồi Xuân xuống Ái Thượng thuộc huyện Bá Thước cũ, bị máy bay Mỹ phát hiện. Tiếng động cơ rít gào trên bầu trời, rồi những loạt đạn trút xuống. Anh em vội nằm rạp xuống, còn chiếc bè của ông Dân bị trúng đạn. Tất cả nhảy xuống nước, nhưng ông vẫn cứng cỏi đứng chèo, quyết đưa bè vào bờ, ném chiếc cày xuống làm neo giữ. Nhìn những mảnh bè bị bom xé nát, ông lại không nỡ bỏ. Ông Dân bơi ra, gom từng mảnh, kéo vào. Lần thứ ba lao ra, đang ôm mảng cuối cùng thì bom nổ chát chúa, hất tung ông lên bụi nứa rồi quăng xuống đất. Máu từ mặt phun thành tia, hàm vỡ, 12 chiếc răng rụng xuống. Vừa ôm mặt, ông vừa cố bò ra bờ sông, nheo mắt tìm bè. Khi thấy chúng vẫn còn, ông mới an lòng, nằm xuống mặc cơn đau quặn thắt. Khi máy bay địch rút đi, đồng đội tìm thấy ông nằm bất động, ai cũng ngỡ ông đã hy sinh. May mắn thay, ông vẫn sống, với vết thương trên cơ thể như minh chứng cho sự quả cảm năm nào.

Sau này, ông Dân được Đảng và Nhà nước tạo điều kiện học tập, rèn luyện bản lĩnh chính trị và chuyên môn. Từ công nhân, tổ phó sản xuất, ông trở thành Ủy viên Ban Chấp hành (BCH) Huyện đoàn, Ủy viên BCH Tỉnh đoàn, Ủy viên BCH Đảng bộ huyện, rồi Ủy viên BCH Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (1974-1985). Trong thời gian làm công tác Đoàn, ông cũng vinh dự được đi thăm nước Cuba anh em. Ông Dân còn là Đại biểu HĐND tỉnh khóa VIII, ĐBQH các khóa IV, V, VI, VII (1971-1987), đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Chiếc thẻ đại biểu dự Đại hội Đảng lần thứ VI và bức ảnh chụp chung với cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong thời gian tham gia Đoàn ĐBQH năm ấy vẫn được ông Dân trân trọng, cất giữ. Được nghe câu chuyện của ông thông qua những kỷ vật, chúng tôi nhận thấy dù ở bất cứ cương vị nào, ông Hà Văn Dân cũng giữ trọn phẩm chất, nêu gương sáng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số xứ Thanh.

Với những hy sinh và đóng góp lớn lao, từ năm 1966 đến 1973, ông liên tiếp đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở, Chiến sĩ thi đua Quyết Thắng. Năm 1970, ông được trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba. Năm 1973, ông vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Đến năm 1986, ông tiếp tục được trao Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Khi được hỏi về giây phút tự hào nhất trong đời, ông lặng đi rồi nói chậm rãi: “Đó là lúc tôi được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Được Đảng soi sáng, tôi hiểu học tập, lao động, chiến đấu là nghĩa vụ của mình”.

Từ một cậu bé mồ côi ở miền núi, nhờ sự dìu dắt của Đảng, Hà Văn Dân đã trở thành người anh hùng lao động, tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau. Trên dòng sông Mã dữ dằn năm nào, ông chính là “chiếc trụ chèo” vững chãi - một biểu tượng bất khuất của con người xứ Thanh.

Bá Phượng

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/gap-lai-nguoi-anh-hung-chiec-tru-cheo-tren-song-ma-261136.htm