Gia nhập chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI - Tăng hiệu quả tận dụng CPTPP
Sáng 2/12, Tạp chí Công Thương tổ chức Tọa đàm với chủ đề 'Gia nhập chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI - Tăng hiệu quả tận dụng CPTPP' nhằm trao đổi về những giải pháp tăng cường sự kết nối, tham gia sâu hơn của doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI, tận dụng hiệu quả hơn Hiệp định CPPTPP..
BTV Huyền My:
Sau gần 5 năm thực thi, Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với mức độ cam kết mở cửa thị trường rất lớn đã mở ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam mở rộng xuất khẩu và tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các đối tác CPTPP cũng khởi sắc rõ nét.
Bên cạnh đó, quá trình thực thi CPTPP đã thúc đẩy Việt Nam cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng minh bạch hơn. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp vận hành chuyên nghiệp hơn, mà còn góp phần nâng cao uy tín quốc tế của Việt Nam, thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài.
So với các FTA khác, CPTPP khá đặc thù bởi nhiều Thành viên đã có FTA song phương/đa phương trước đó với Việt Nam và các doanh nghiệp cũng đang tận dụng ưu đãi của những FTA cũ với các thị trường này. Tuy nhiên, với việc thực thi CPTPP, các doanh nghiệp có thêm kênh ưu đãi, lợi thế để khai thác, nhất là trong bối cảnh một số nước thành viên CPTPP vốn là nguồn cung truyền thống cho đầu vào của nhiều ngành sản xuất tại Việt Nam và nắm giữ những chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu như: Nhật Bản, Singapore, Australia…
Việc tận dụng nguồn nguyên liệu đầu vào với giá thành cạnh tranh. Và việc tham gia kết nối, liên kết với các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa khi tham gia vào các chuỗi cung ứng của các Tập đoàn đa quốc gia đến từ các thành viên của CPTPP trở thành lợi ích nổi bật cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tận dụng cơ hội từ Hiệp định này.
Từ đó doanh nghiệp Việt Nam có thể thúc đẩy gia tăng sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang các nước thành viên khác mà chúng ta chưa có FTA trước CPTPP hay sang những thị trường đang có mong muốn trở thành thành viên của CPTPP tương lai.
Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tham gia vào các chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI trong CPTPP như thế nào? Cần thêm những giải pháp gì để gia tăng cơ hội và khả năng tận dụng những nguồn lực này?
Vấn đề này sẽ được chia sẻ dưới những góc nhìn đa dạng và sâu sắc hơn tại Tọa đàm hôm nay do Tạp chí Công Thương thực hiện.
Tọa đàm với chủ đề “Gia nhập chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI - Tăng hiệu quả tận dụng CPTP”.
Tới dự Tọa đàm ngày hôm nay, có sự tham gia của các vị khách mời. Xin trân trọng giới thiệu:
- Bà Nguyễn Thị Lan Phương - Phó Trưởng phòng WTO và FTA, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương
- Ông Nguyễn Trung Hiếu - Trưởng Ban Kế hoạch kinh doanh Công ty Ô tô Toyota Việt Nam
- Ông Nguyễn Thành Trung - Giám đốc CNCTech Thăng Long, Tập đoàn CNCTech
Xin cảm ơn các vị khách mời đã đến với Tọa đàm của Tạp chí Công Thương ngày hôm nay. Và trước khi bắt đầu Chương trình, xin mời quý vị cùng theo dõi một phóng sự do Tạp chí Công Thương tổng hợp.
BTV Huyền My: Quay trở lại với các vị khách mời, câu hỏi đầu tiên tôi xin gửi tới Bà Nguyễn Thị Lan Phương, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương.
Xin bà chia sẻ những đánh giá về tình hình tận dụng CPTPP của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt trong việc tận dụng nguồn lực đầu tư, chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn đến từ các các thị trường trong CPTPP? Những kết quả này liệu đã đạt hiệu quả như chúng ta kỳ vọng?
Bà Nguyễn Thị Lan Phương, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:
Hiệp định CPTPP là một trong ba Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia và Hiệp định CPTPP cũng là hiệp định đến thời điểm hiện nay chúng ta có thời gian thực thi lâu nhất khoảng 5 năm.
Với công tác theo dõi thực thi, chúng tôi đánh giá rằng Hiệp định CPTPP đã mang lại những lợi ích rất tích cực đối với hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư của Việt Nam và chúng ta có thể thấy được những sự tăng trưởng vượt bậc trong kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước CPTPP. Ví dụ kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta đến thời điểm 2023 khoảng 95,5 tỉ USD, trong khi 2019 khoảng 77 tỉ USD. Như vậy có một sự tăng trưởng rất lớn và thặng dư thương mại của Việt Nam với các nước CPTPP cũng có sự tăng trưởng từ năm 2019 chỉ khoảng 1,6 tỷ USD thì hiện nay là 4,7 tỷ USD.
Trong Hiệp định CPTPP các bạn sẽ nhận thấy những thị trường rất mới. Đấy là những thị trường mà trước đây chúng ta chưa có FTA, ví dụ như Canada, Mexico và Peru thì chúng ta cũng có sự tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu rất vượt bậc. Năm 2023 kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta với các nước chưa có FTA này khoảng 12 tỉ USD và gấp hai lần so với năm 2019 khi mà chúng ta chưa có FTA này; thặng dư thương mại cũng tăng trưởng rất lớn, chúng ta tăng trưởng từ 5 tỉ USD lên mức năm 2023 là 9 tỷ USD.
Trong 9 tháng đầu năm 2024 chúng tôi cũng ghi nhận những kết quả tăng trưởng tích cực về kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước CPTPP đến nay được khoảng hơn 76 tỉ USD và tăng trưởng khoảng gần 10% so với cùng kỳ năm ngoái.
Với những tăng trưởng về mức thặng dư thì hiện nay chúng ta cũng đang thặng dư khoảng 6,6 tỷ USD, tức là những con số hết sức ấn tượng về kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước CPTPP và đặc biệt là những thị trường mà chưa từng có FTA.
Các nhà đầu tư nước ngoài từ các thành viên CPTPP như Singapore, Nhật Bản đã tiếp cận thị trường Việt Nam một cách rất tích cực để họ nhìn nhận những cơ hội từ CPTPP rất lớn nên họ xâm nhập tận dụng những hiệu quả từ Hiệp định FTA này.
Thế nhưng quá trình thực thi FTA cũng như tận dụng lợi thế từ CPTPP không phải chỉ có kết quả tích cực mà chúng tôi cũng nhìn nhận còn có những kết quả mà chúng ta cần phải tiếp tục thúc đẩy hơn nữa.
Cụ thể phần lớn doanh nghiệp tận dụng được các FTA này là các doanh nghiệp FDI, ví dụ là những doanh nghiệp trong những lĩnh vực linh kiện điện tử, giày dép, dệt may, máy tính…, còn những doanh nghiệp liên quan đến nông, thủy sản là những doanh nghiệp thế mạnh của Việt Nam thì mức độ tận dụng còn tương đối hạn chế.
Chúng tôi cũng đánh giá rằng với những thị trường mà chúng ta thúc đẩy được FTA thì tỉ trọng của chúng ta tại các thị trường còn rất hạn chế. Không chỉ CPTPP mà những FTA thế hệ mới khác như EVFTA hay UKVFTA cũng chỉ dưới 10% thôi.
Với những thị trường như CPTPP và Mexico và Canada, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ đó dưới 2% và tỷ lệ tận dụng ưu đãi với CPTPP chúng tôi đánh giá năm 2022 chỉ khoảng gần 5%.
Vì thế dư địa và cơ hội để chúng ta tận dụng tại các thị trường FTA này còn rất lớn, đặc biệt là những thị trường mà chúng ta chưa có FTA trước đó.
Nhìn nhận ở một góc độ thứ hai, tức là những doanh nghiệp Việt Nam đã có cơ hội xuất khẩu sang các thị trường CPTPP thì mặc dù họ đã tham gia được một phần nào vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI, tuy nhiên còn rất hạn chế và họ cũng rất khó đáp ứng được rất nhiều những tiêu chuẩn ngày càng cao của các thị trường FTA, đặc biệt họ ngày càng dựng lên nhiều hàng rào về mặt kỹ thuật để cho các doanh nghiệp sẽ phải tăng cường năng lực lên mới có thể đáp ứng được.
Đấy là những góc nhìn hai chiều cả khía cạnh tích cực và những mặt còn cần phải củng cố trong việc tận dụng FTA, CPTPP trong thời gian tới.
BTV Huyền My: Theo bà, doanh nghiệp Việt Nam có những cơ hội và lợi thế như thế nào nếu tận dụng được những nguồn lực từ nhập khẩu, chuyển giao công nghệ khi tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI trong CPTPP?
Bà Nguyễn Thị Lan Phương - Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:
Chúng ta thấy được rằng doanh nghiệp của chúng ta phần nào đã tận dụng được các Hiệp định FTA, trong đó có CPTPP nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc tận dụng đó còn tương đối hạn chế.
Thực ra nguyên nhân có cả nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan và có nguyên nhân cả từ các góc độ cơ quan quản lý mặc dù đã rất nỗ lực nhưng cũng còn những cái chưa hỗ trợ được một cách thực sự hiệu quả cho doanh nghiệp.
Chúng tôi xin phép rằng chỉ phân tích góc độ của doanh nghiệp thôi vì chúng ta đang nói đến câu chuyện doanh nghiệp Việt Nam kết nối với doanh nghiệp FDI như thế nào.
Tôi nhìn nhận góc độ doanh nghiệp Việt Nam có mấy khía cạnh mà chưa thực sự nội lực đủ mạnh để có thể kết nối và tận dụng được các FTA này.
Thứ nhất là chúng ta nhìn nhận thấy rằng phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đến thời điểm hiện nay thường xuất thô, rất ít chế biến sâu.
Thứ hai nữa là họ không chú trọng vào những vấn đề xây dựng thương hiệu hay vấn đề chú trọng bảo hộ những quyền sở hữu trí tuệ của họ ở các thị trường nước ngoài. Tức là chúng tôi thấy rằng về năng lực của doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối yếu và cái yếu này đến từ rất nhiều những lý do khác nhau, có thể là doanh nghiệp muốn đầu tư công nghệ để đổi mới mình để có thể xây dựng những mặt hàng có thế mạnh hơn, tham gia vào chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng tốt hơn nhưng họ lại thiếu vốn, không thể nào thực hiện được chuyển giao công nghệ để thay đổi đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình.
Đặc điểm thứ hai là doanh nghiệp Việt Nam còn yếu về mặt quản trị để đáp ứng được các FTA, đặc biệt là những FTA thế hệ mới thì cái việc thẩm định trong chuỗi cung ứng rất quan trọng để đảm bảo đáp ứng được hết các cái tiêu chuẩn của các doanh nghiệp FDI hay các doanh nghiệp nước ngoài trong khi năng lực quản trị và kinh nghiệm của doanh nghiệp Việt Nam từ hệ thống nhân lực hay kế toán còn chưa đáp ứng được những cái điều đấy và bản thân tư duy của doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa dám dũng cảm để làm những câu chuyện về thương hiệu hay những câu chuyện về việc xây dựng hình ảnh sản phẩm made in Việt Nam tại thị trường nước ngoài.
Trong câu chuyện đó, chúng tôi nhìn nhận rằng có nhiều giải pháp khác nhau để các doanh nghiệp có thể tận dụng được CPTPP hay các FTA nói chung.
Nhưng có một con đường trong sự lựa chọn, đấy là việc kết hợp với các doanh nghiệp FDI để hình thành nên một chuỗi cung ứng. Bởi vì các doanh nghiệp FDI là những tập đoàn đa quốc gia, họ có năng lực về vốn rất lớn, có kinh nghiệm quản trị toàn cầu và có những công nghệ tiên tiến hàng đầu. Nếu trong trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam kết hợp được vào chuỗi cung ứng với các doanh nghiệp FDI thì bằng một cách rút ngắn như vậy chúng ta sẽ giống như chúng ta học hỏi từ người khổng lồ để chúng ta có thể lớn mạnh nhanh hơn và rút ngắn thời gian mà chúng ta hội nhập quốc tế được tốt hơn. Đấy là mong muốn của chúng tôi về cơ hội dành cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do.
BTV Huyền My: Được biết, trong thời gian qua, CNCTech Thăng Long đã có những hoạt động trong việc kết nối, liên kết với các doanh nghiệp của Nhật Bản nói riêng cũng như các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia nói chung.
Ông có thể chia sẻ thêm về những hoạt động liên kết này. Và việc tham gia vào các chuỗi cung ứng của các tập đoàn đã quốc gia đã đem lại lợi ích như thế nào đối với CNCTech Thăng Long trong quá trình đầu tư, cũng như sản xuất kinh doanh và tận dụng được cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do?
Ông Nguyễn Thành Trung - CNCTech Thăng Long, Tập đoàn CNCTech:
Khi chúng tôi tham gia vào chuỗi giá trị của bên Nhật Bản nói riêng và toàn cầu nói chung thì chúng tôi cũng được sự hỗ trợ rất nhiều từ các doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ như Toyota như năm vừa rồi thì chúng tôi cũng có được sự hỗ trợ của Toyota về đào tạo, quản lý và đào tạo, về hệ thống, nâng cao về chất lượng, đào tạo nguồn lực con người và từ đó thì chúng tôi nhìn thấy việc nâng tầm uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam rất quan trọng.
Chúng tôi tập trung vào ba lĩnh vực:
Thứ nhất, xây dựng mối quan hệ hợp tác chiến lược với các doanh nghiệp nước ngoài để làm sao mà có thể kết hợp một cách chặt chẽ để để nâng cao được khả năng cạnh tranh.
Thứ hai nâng cao về chất lượng sản phẩm, chúng tôi áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trước kia là hệ thống quản lý chất lượng về ISO. Tuy nhiên đến thời thời điểm hiện nay là IATF dành cho ngành ô tô, ngành xe hơi và AS 9100 dành cho ngành hàng không vũ trụ.
Khi chúng tôi tiếp xúc với các doanh nghiệp nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp Nhật Bản nói riêng và các công ty tầm cỡ thế giới như Toronto thì họ đã hướng dẫn và đồng thời từ đấy chúng tôi đã tìm được con đường cũng như phương pháp để có thể đi ra thế giới dựa vào năng lực kỹ thuật của bản thân mình.
Tiếp theo, dựa trên mối liên hệ này thì chúng tôi phát triển được nguồn nhân lực của bản thân CNCTech, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, học được những công nghệ mới từ các công ty nước ngoài và công ty, các công ty Nhật Bản nói riêng để chúng tôi có thể nâng cao được nguồn lực cạnh tranh cũng như cải thiện hệ thống và có thể cạnh tranh được một cách sòng phẳng với các công ty nước ngoài, ví dụ như Trung Quốc là những công ty có nhiều sự cạnh tranh và trước kia đối với Việt Nam thì điều đấy rất khó.
Khi mà chúng tôi tham gia vào vào chuỗi này thì chúng tôi đã có thể tăng trưởng được doanh thu một cách nhanh chóng và ổn định, để dựa trên đấy để chúng tôi có thể phát triển mạnh mẽ hơn về cơ sở hạ tầng cũng như về nguồn lực để có thể tìm kiếm được nhiều khách hàng hơn, không chỉ ở trong các doanh nghiệp FDI mà chúng tôi có thể vươn ra thế giới. Cụ thể chúng tôi đã tham gia vào những hội chợ, triển lãm của Nhật hay của Mỹ để chúng tôi tìm thêm các nguồn khách hàng.
Khi mà chúng tôi làm việc với công ty của nước ngoài thì chúng tôi học hỏi được những kỹ thuật mới, những kỹ thuật cốt lõi để chúng tôi có thể phát triển được và nâng cao tính cạnh tranh.
BTV Huyền My: Quá trình này, CNC Tech Thăng Long đã nhận được sự hỗ trợ như thế nào các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cũng như các doanh nghiệp Nhật Bản. Với sự hỗ trợ đó, CNC Tech Thăng Long đã có cơ hội để mở rộng hoạt động đầu tư phát triển ra sao?
Ông Nguyễn Thành Trung - CNCTech Thăng Long, Tập đoàn CNCTech:
Rất may mắn chúng tôi được sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương dựa trên những việc đấy là từ Bộ Công Thương kết hợp kết nối với các doanh nghiệp nước ngoài, ví dụ cụ thể ở đây là Toyota đã hỗ trợ đào tạo cũng như tư vấn để nâng cao được năng lực về kỹ thuật, năng lực về chuyên môn cũng như năng lực về quản lý của công ty. Từ đấy chúng tôi dựa trên những phát triển, dựa trên hệ thống đấy chúng tôi có thể tìm kiếm cũng như đáp ứng được các khách hàng khó tính ở trên thế giới mà từ trước đến nay Việt Nam cũng rất ít có thể đáp ứng được.
Nơi chúng tôi đang hoạt động là tỉnh Vĩnh Phúc rất quan tâm để ý và cũng hỗ trợ cho chúng tôi về các chính sách hỗ trợ, về nguồn lực để làm sao mà tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Việt Nam có thể phát triển và tiếp xúc được với các công ty có tầm cỡ lớn của nước ngoài đang hoạt động trên địa bàn Vĩnh Phúc, ví dụ như Huyndai, Toyota…
BTV Huyền My: Đó là từ những thông tin từ phía doanh nghiệp Việt Nam. Còn với đối tác của chúng ta trong CPTPP thì sao? Tại trường quay ngày hôm nay có đại diện của Doanh nghiệp FDI Nhật Bản, Công ty Ô tô Toyota Việt Nam.
Trong thời gian qua, những chương trình phối hợp giữa Toyota với Bộ Công Thương và địa phương hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua đã trở thành một điểm nhấn trong sự phát triển của Toyota tại Việt Nam. Quá trình này đã góp phầnnâng cao năng lực và tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp Việt Nam với các nhà lắp ráp, sản xuất ôtô. Từ đó, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã có cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của Toyota.
Được biết, hiện danh sách các nhà cung cấp của Toyota lên tới con số 60, trong đó có 13 nhà cung cấp thuần Việt với tổng số sản phẩm nội địa hóa đạt trên 1.000 sản phẩm các loại. Từ sự liên kết này, các doanh nghiệp Việt Nam đã có cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, tận dụng những lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do mang lại.
Thưa ông Nguyễn Trung Hiếu, ông có thể chia sẻ rõ hơn về hoạt động và cũng như kết quả mà mô hình hợp tác đã mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam được thể hiện cụ thể như thế nào, đặc biệt doanh nghiệp Việt Nam đã có lợi thế như thế nào khi được tham gia vào chuỗi cung ứng của Toyota?
Ông Nguyễn Trung Hiếu - Công ty Ô tô Toyota Việt Nam:
Rất cảm ơn chị đã tóm tắt rất nhanh những hoạt động của công ty Toyota khi hợp tác với các doanh nghiệp, các nhà cung ứng trong chuỗi cung ứng của ngành ô tô tại Việt Nam trong thời gian qua.
Chúng tôi cũng có những hoạt động hợp tác rất chặt chẽ với các doanh nghiệp cung ứng Việt Nam từ gần 5 năm nay. Sau 5 năm thì chương trình này là chương trình chúng tôi được hợp tác với Bộ Công Thương.
Cụ thể các hoạt động như chúng tôi tổ chức những buổi đào tạo nâng cao nhận thức của lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp và người lao động.
Thứ hai chúng tôi tổ chức những buổi coaching (huấn luyện) trực tiếp làm cùng với các doanh nghiệp và đây là coaching 1 - 1 luôn, Toyota cử cán bộ chuyên gia đến từng doanh nghiệp để làm việc và hướng dẫn, do đó kết quả rất sâu sát.
Không những thế chúng tôi còn kết nối các doanh nghiệp với nhau, ví dụ như nhà cung ứng cấp một có thể kết nối với các nhà cung ứng cấp hai qua mạng lưới của chúng tôi, bằng cách đó chúng tôi thấy được rằng các doanh nghiệp cung ứng trong chuỗi cung của Việt Nam thực ra rất có tiềm năng.
Tuy nhiên vẫn có một điểm mà chúng ta cần phải cải thiện hơn, ví dụ như trình độ quản lý hay quản trị sản xuất hay những việc rất đơn giản, đó là làm sao để có thể đảm bảo được an toàn trong nhà xưởng một cách hiệu quả cũng như duy trì được việc đảm bảo an toàn đó, qua đó giúp nâng cao ý thức người lao động và qua đó cắt giảm những rủi ro, cắt giảm chi phí.
Gần 5 năm vừa qua Toyota Việt Nam đã trực tiếp sàng lọc hàng trăm đơn vị, sau đó trực tiếp làm việc cụ thể với khoảng vài chục đơn vị và qua quá trình đó chúng tôi tuyển dụng được một vài đơn vị trở thành nhà cung cấp và hiện tại đã bắt đầu cung cấp cho các dự án sản xuất xe, sản xuất linh kiện cho cho những chiếc xe của chúng tôi sản xuất tại Việt Nam.
Đó là về cái lợi mà của công ty Toyota nhận được, đó là chúng tôi có thêm được các nhà cung cấp mới.
Còn đối với các nhà cung cấp mà chúng tôi đã hỗ trợ thì chúng tôi có một vài số liệu. Ví dụ như có những đơn vị đã có thể giảm tồn kho đến 60% hay như tiết kiệm được hơn 3.600 m2 nhà xưởng và giảm được chi phí thuê nhà xưởng của họ hay có thể tăng đến 74% năng suất của người lao động, cải thiện được môi trường lao động an toàn, thân thiện môi trường hơn, do đó làm cho người lao động gắn bó hơn với doanh nghiệp.
Đấy là những kết quả mà chúng tôi rất mừng, mong muốn được chia sẻ và thời gian tới đây xin phép được tiết lộ thêm không chỉ làm việc, hợp tác với Bộ Công Thương mà chúng tôi cũng định mở rộng làm việc với một số địa phương để có những tinh chỉnh cho chương trình phù hợp với đặc thù của địa phương hơn nữa.
BTV Huyền My: Đối với Toyota, chương trình này có ý nghĩa ra sao? Và việc gia tăng nhà cung cấp nội địa vào chuỗi cung ứng của Toyota sẽ đem lại hiệu quả như thế nào trong quá trình tận dụng những ưu đãi từ CPTPP và thỏa thuận thương mại của Việt Nam và Nhật Bản mang lại?
Ông Nguyễn Trung Hiếu - Công ty Ô tô Toyota Việt Nam:
Đối với Toyota có lẽ về triết lý của Toyota đó là luôn cố gắng đóng góp cho địa bàn sở tại thông qua các hoạt động sản xuất.
Để làm việc đó thì thứ nhất, bản thân công ty cần phải cố gắng duy trì nỗ lực phát triển sản xuất của công ty; thứ hai đó là tăng cường tỉ lệ nội địa hóa, tìm kiếm nhà cung ứng, phối hợp với họ.
Với những triết lý đó, trong suốt gần 30 năm thành lập Công ty Toyota Việt Nam đã không ngừng nỗ lực phát triển hoạt động nội địa hóa, tìm kiếm nhà cung cấp và như số liệu cũng đã chia sẻ, đấy là hiện tại chúng tôi nội địa hóa được khoảng độ hơn 1.000 linh kiện khác nhau và có những mẫu xe có thể đạt đến trên 40% hàm lượng nội địa hóa và cuối cùng cái đó giúp cho chúng tôi tạo ra được một nền tảng vững vàng. Khi thị trường biến động thì ví dụ như thời gian vừa qua khi mà dịch Covid làm đứt gãy nguồn cung ứng từ nước ngoài thì chính nhờ giảm bớt phụ thuộc vào nước ngoài thì chúng tôi có sự chủ động hơn rất nhiều với nguồn cung trong nước.
Còn đối với Hiệp định CPTPP thì như phân tích ban đầu cũng có nói thực ra hiệp định này là một hiệp định thế hệ mới và có một đặc thù rất nhiều đối tác, bao gồm các nước đối tác của chúng ta trong CPTPP cũng đã có các thỏa thuận thương mại với Việt Nam trước đó. Ví dụ như chúng tôi làm việc với Nhật Bản thì cũng đã có các hiệp định ASEAN - Nhật Bản hay là Hiệp định Việt Nam - Nhật Bản; bởi vậy khi áp dụng Hiệp định CPTPP chúng tôi có thêm một lựa chọn, thêm cơ hội để cân nhắc những nguồn linh kiện từ Nhật Bản hoặc từ các thành viên khác trong hiệp định. Đấy là thứ nhất.
Thứ hai góp phần giúp chúng tôi giảm được chi phí thông qua việc áp dụng các cơ chế giảm thuế suất nhanh hơn của Hiệp định CPTPP.
Chúng tôi cũng hy vọng rằng trong tương lai khi lộ trình áp dụng của Hiệp định CPTPP đối với ngành ô tô về 0% vào khoảng năm 2030 - 2031 thì cũng giúp cho chúng tôi có sự cạnh tranh tốt hơn trên thị trường Việt Nam.
Đối với mảng xuất khẩu thì hiện tại qua trao đổi chúng tôi được biết là một số các thành viên trong tập đoàn họ chuyên sản xuất linh kiện tại Việt Nam và xuất đi toàn cầu thì họ cũng thông qua Hiệp định CPTPP này, cộng với kết nối với những hiệp định khác mà họ đang sử dụng thì họ tạo ra một sự kết hợp hoàn hảo giữa linh kiện đầu vào cho họ chế biến, chế tạo tại Việt Nam và xuất đi một thị trường trong CPTPP, giúp cho họ tìm kiếm khách hàng mới cũng như tăng thêm được doanh số.
BTV Huyền My: Qua chia sẻ của các doanh nghiệp thụ hưởng và doanh nghiệp đầu tư, rõ ràng có rất nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tận dụng được nguồn lực và tham gia chuỗi cung ứng của FDI này. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam tham gia và tận dụng tối đa những nguồn lực này còn chưa xứng với tiềm năng.
Thưa bà Nguyễn Thị Lan Phương, theo bà doanh nghiệp Việt Nam đang bị hạn chế như thế nào trong quá trình tiếp cận những nguồn lực này và cần thay đổi ra sao?
Bà Nguyễn Thị Lan Phương - Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:
Vừa xong chúng ta được nghe chia sẻ của ông Trung và ông Hiếu, một đơn vị là doanh nghiệp FDI và một đơn vị được thụ hưởng từ những kết nối đấy, là một đơn vị đi đàm phán và thực thi các FTA như CPTPP chúng tôi rất vui mừng khi mà những nỗ lực và cố gắng của Chính phủ trong việc đàm phán và thực thi FTA này đã được hiện thực hóa trong lợi ích của các doanh nghiệp, cả doanh nghiệp Việt Nam lẫn doanh nghiệp nước ngoài.
Vì trong FTA chúng tôi luôn luôn mong muốn một cơ chế win - win nghĩa là cả các doanh nghiệp thành viên các nước CPTP lẫn Việt Nam đều được hưởng lợi từ đó.
Như ông Hiếu có vừa trình bày, tức là khi có FTA nói chung cũng như CPTPP sẽ củng cố giá trị cho các doanh nghiệp FDI, ở điểm là chúng ta cũng thấy đến thời điểm hiện nay thì chúng ta đã có 16 FTA đã có hiệu lực; thông qua 16 FTA này chúng ta Việt Nam đã có quan hệ đối tác với khoảng 56 quốc gia và các quốc gia này chiếm khoảng 90% GDP toàn cầu, tức là với lượng FTA mà chúng tôi đang đàm phán được rồi là chúng ta đã phủ sóng được những quan hệ đối tác FTA lớn nhất.
Ví dụ như Hiệp định CPTPP là một Hiệp định FTA thế hệ mới rất hấp dẫn và tiêu chuẩn cao và toàn diện thì đang thu hút rất nhiều thành viên tham gia và cũng xin chia sẻ đến ngày 15/12 này thì Vương quốc Anh sẽ chính thức trở thành thànhviên chính thức của CPTPP, nghĩa là ví dụ như Toyota sẽ có cơ hội tận dụng được nhiều ưu đãi về thuế quan hơn khi xuất khẩu các sản phẩm sang thị trường này.
Cũng như ông Hiếu có chia sẻ, trong giai đoạn Covid chúng ta đã trải nghiệm chuyện đứt gãy chuỗi cung ứng. Khi chúng tôi đi tham vấn ở các tỉnh thành và có gặp gỡ các doanh nghiệp FDI, chúng tôi được chia sẻ rằng bản thân doanh nghiệp FDI như công ty Toyota luôn luôn mong muốn tìm kiếm những nhà cung ứng ở trong nước để đảm bảo cho quá trình sản xuất của họ được ổn định nhất vì khi xảy ra trường hợp như Covid đứt gãy chuỗi cung ứng thì doanh nghiệp thiệt hại rất nhiều.
Chính vì thế mà với câu chuyện các FTA thế hệ mới như CPTPP, chúng tôi thường đưa ra những quy tắc tương đối ngặt nghèo vì mong muốn ở đó chúng ta xây dựng một ngành ô tô bền vững và các nhà cung cấp cũng như sản phẩm cuối cùng có sự kết nối chặt chẽ với nhau để gia tăng hàm lượng nội địa lên, từ đó mới thúc đẩy ngành của trong nước của chúng ta phát triển một cách dài hạn, thay vì trước đây chúng ta chỉ đi gia công hoặc chúng ta chỉ đi lắp ráp thôi.
Xin có thêm những chia sẻ về việc khi chúng tôi thiết kế các hiệp định hoặc đàm phán những điều khoản ở đó đã có sự tính toán về chuyện đó. Thế nhưng câu chuyện quay trở lại làm sao doanh nghiệp Việt Nam có thể gia nhập và tận dụng những cơ hội đó như anh Trung có chia sẻ khi mà anh tham gia kết nối với FDI hoặc thậm chí bây giờ đã tự tin kết hợp với các doanh nghiệp toàn cầu và hưởng lợi được rất nhiều; được nâng cao năng lực về nhân lực, năng lực, về kinh nghiệm quản trị và bản thân các doanh nghiệp FDI cũng hỗ trợ họ rất nhiều.
Trong quá trình đó chúng tôi đánh giá rằng, để một doanh nghiệp Việt Nam có thể gia nhập vào chuỗi FDI hay sẵn sàng trao đổi trực tiếp với các doanh nghiệp, đối tác nước ngoài thì bản thân doanh nghiệp phải có rất nhiều sự thay đổi để có thể hấp thụ được những cơ hội trong các FTA đấy.
Trước tiên doanh nghiệp phải thay đổi tư duy. Bây giờ đã đến thời đại hội nhập rồi, chúng ta không thể nào mà kinh doanh trong phạm vi khuôn khổ hạn hẹp của trong nước nữa và quá trình hội nhập đó sẽ tạo ra động lực cạnh tranh làm cho những doanh nghiệp yếu kém bị đào thải nhưng cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp có năng lực và sẵn sàng đối mặt với những thử thách, vượt qua những giới hạn an toàn của chính mình và có thể tiếp cận được những thị trường tốt hơn. Và một khi anh đã vượt qua được giới hạn an toàn và anh có thể thúc đẩy tăng trưởng vào những thị trường tiêu chuẩn cao thì sự tồn tại của anh sẽ rất lâu dài.
Doanh nghiệp của chúng ta đầu tiên phải thay đổi tư duy trước, thay đổi tư duy rồi phải đặt ra mục đích, xác định doanh nghiệp muốn trở thành như thế nào trong chuỗi cung ứng đó để đặt ra bài toán chúng ta sẽ đi như thế nào để đến lối đi đấy.
Chúng tôi thấy được thay đổi thứ hai mà doanh nghiệp Việt Nam cần phải làm là doanh nghiệp sẽ phải đi tìm kiếm những đối tác phù hợp với phân khúc hoặc định vị của mình trong tương lai để tiếp cận được với họ. Khi đã tìm kiếm được rồi, bản thân doanh nghiệp sẽ phải có quá trình so sánh giữa hiện trạng của mình với năng lực để đáp ứng được.
Ví dụ như anh Hiếu có nói phải thẩm định 1000 nhà cung cấp thì chỉ chọn được khoảng 10 nhà cung cấp, không phải ai cũng có thể đáp ứng được chuỗi cung ứng của Toyota cũng như các doanh nghiệp FDI khác. Nếu định vị được giá trị hiện tại của mình và giá trị cần đạt được trong tương lai có một khoảng cách rất lớn ở giữa đó. Thế thì bản thân doanh nghiệp sẽ phải nỗ lực thay đổi để có thể tiệm cận được với nhu cầu của các doanh nghiệp FDI.
Trong quá trình thay đổi đó, bản thân các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các hiệp hội ngành hàng và nhiều cơ quan ban, ngành ở địa phương sẽ phải cố gắng phối hợp cùng với doanh nghiệp để xử lý khoảng cách mà doanh nghiệp Việt Nam và tiêu chuẩn mà tuyển dụng của các doanh nghiệp FDI hiện nay.
Còn một yếu tố nữa ở đây không phải chỉ doanh nghiệp Việt Nam thay đổi mà chúng tôi muốn có một thông điệp đến các doanh nghiệp FDI vì khi các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam là các doanh nghiệp FDI cũng đang hưởng lợi trên giá trị mảnh đất của Việt Nam, hưởng lợi từ các hiệp định như CPTPP.
Khi mà đã được hưởng lợi từ những FTA này đồng thời ngược lại như Toyota có chia sẻ về giá trị đồng hành và giá trị chia sẻ trên mảnh đất Việt. Trong quá trình đấy các doanh nghiệp FDI sẽ phải nỗ lực cùng với các doanh nghiệp Việt Nam đào tạo, chia sẻ những kinh nghiệm, công nghệ hướng dẫn họ để nâng cao năng lực quản trị, để có thể trưởng thành và đáp ứng được tiêu chuẩn trở thành nhà cung ứng đầu vào cho các doanh nghiệp FDI.
Chúng tôi muốn chia sẻ, sự thay đổi của doanh nghiệp ở đây phải là sự thay đổi của cả hai chiều. Bởi vì không phải doanh nghiệp FDI nào cũng như Toyota để mà vào Việt Nam và xác định được trách nhiệm xã hội đó của mình.
Vì thế mà chúng tôi muốn có một thông điệp hai chiều, bản thân doanh nghiệp Việt Nam sẽ thay đổi để đáp ứng hơn nhưng họ cũng cần sự dìu dắt từ cả doanh nghiệp FDI, bên cạnh sự hỗ trợ của Chính phủ và các sở, ban ngành.
BTV Huyền My: Đúng là để đáp ứng được các yêu cầu của chuỗi cung ứng thì doanh nghiệp Việt Nam cũng như các doanh nghiệp FDI đều cần có những sự thay đổi và chắc chắn CNC Tech Thăng Long đã phải chuyển đổi trong quá trình sản xuất.
Ông có thể chia sẻ CNC Tech Thăng Long đã đáp ứng các điều kiện và thích ứng như thế nào? Quá trình này đã tạo ra áp lực cũng như động lực như thế nào cho CNCTech Thăng Long để thích ứng?
Ông Nguyễn Thành Trung - CNCTech Thăng Long, Tập đoàn CNCTech:
Khi CNCTech Thăng Long tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và nhờ sự hỗ trợ của các doanh nghiệp nước ngoài nói chung và Toyota nói riêng thì chúng tôi đã phải thay đổi, không phải chỉ là thay đổi mà thậm chí là chuyển đổi, chuyển mình hoàn toàn thay đổi từ phương thức sản xuất cũ bước lên một phương thức sản xuất toàn cầu.
Chúng tôi đã phải thay đổi từ việc tự nâng cấp bản thân không chỉ về đầu tư các máy móc, thiết bị hiện đại mà thậm chí phải đầu tư vào phần kỹ thuật của người lao động, nâng cao phần kỹ thuật để làm sao có thể đáp ứng được, thậm chí thay đổi về tư duy, thay đổi về phương pháp đảm bảo chất lượng, thay đổi về mặt bằng chất lượng để nâng cao hơn như thế nào. Đồng thời chúng tôi còn phải thích nghi với văn hóa. Bởi vì khi làm việc với ccác công ty của các nước khác nhau thì văn hóa của họ khác nhau và những điều đấy tạo ra áp lực.
Trước kia có những đơn hàng chúng tôi đã làm nhưng khi quay lại và chúng tôi làm có những đơn hàng chúng tôi phải giảm thời gian đi chỉ còn 30% so với với timeline trước kia, nghĩa là áp lực rất cao.
Tuy có áp lực như thế nhưng cũng là động lực mạnh mẽ để giúp chúng tôi có thể làm sao hoàn thiện bản thân, hoàn thiện hệ thống, hoàn thiện con người, hoàn thiện phương pháp quản lý và hoàn thiện kỹ năng chuyên môn của từng cán bộ, công nhân viên để làm sao đáp ứng được được những tiêu chí đó.
Từ đấy như chị Phương có nói, thường thì thương hiệu của công ty Việt Nam chỉ nằm gói gọn ở trong lãnh thổ Việt Nam nhưng mà CNCTech thì đã có thể thoát ra được, nghĩa là rất nhiều khách hàng từ nước ngoài, ví dụ từ Mỹ, châu Âu hay Israel liên lạc trực tiếp về CNCTech dựa trên mạng internet.
Chúng tôi có thể tự tin thương hiệu doanh nghiệp của chúng tôi đã vượt ra được khỏi lãnh thổ Việt Nam. Lý do là ban lãnh đạo của CNCTech đã có một chiến lược marketing về thương hiệu khá tốt không chỉ nằm ở Việt Nam mà thậm chí ở toàn cầu. Chúng tôi đã thuê các đơn vị nổi tiếng rất uy tín ở trên thế giới về vấn đề marketing để làm sao đào tạo, hướng dẫn cũng như kết hợp đồng hành để tạo được ra thương hiệu của CNCTech ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
BTV Huyền My: Thưa ông Nguyễn Trung Hiếu, trong quá trình liên kết, chuyển giao và hỗ trợ vừa qua thì các doanh nghiệp Việt Nam đã nắm bắt cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng của Toyota như thế nào? Những lợi thế nào đã được các nhà cung cấp nội địa phát huy tốt và còn những vấn đề nào chưa thể cải thiện?
Ông Nguyễn Trung Hiếu - Công ty Ô tô Toyota Việt Nam:
Phần trình bày vừa rồi của anh Trung cũng phần nào thể hiện được quá trình chuyển đổi của một đơn vị đang ở tầm quốc gia sang tầm quốc tế. Toyota Việt Nam và CNCTech đã có những chương trình hợp tác với nhau cũng như nhiều đơn vị khác, chúng tôi nhìn thấy có những điểm mạnh mà doanh nghiệp Việt Nam nên duy trì và phát huy cũng như có những điểm vẫn còn tiếp tục phải cố gắng để có thể khắc phục.
Về điểm tốt có thể phát huy mà chúng tôi nhận thấy:
Thứ nhất, quyết tâm của người Việt Nam cao lắm, một khi đã xác định được quyết tâm người ta sẽ cố gắng làm. Bởi vậy cho nên việc đầu tiên khi thực hiện chương trình, chúng tôi chưa đào tạo gì cả mà chúng tôi làm việc luôn với Ban giám đốc luôn để xác nhận anh có quyết tâm hay không, quyết tâm thì chúng ta mới làm, đấy là điều đầu tiên.
Thứ hai, trình độ tay nghề của người lao động Việt Nam rất khéo léo và sáng tạo trong việc áp dụng và học hỏi.
Khi chúng tôi đến làm với các cán bộ đội ngũ triển khai các chương trình như 5S hay các chương trình đào tạo nâng cao trình độ quản trị sản xuất thì chúng tôi có thể ở đó với họ 3 - 6 tháng. Nhưng để có thể duy trì được và cũng như có thể ứng dụng triết lý của Toyota vào từng doanh nghiệp cụ thể thì bắt buộc phải cần sự sáng tạo và sự chủ động của cán bộ, công nhân người Việt Nam. Đây chính là thế mạnh, một khi nắm hiểu được triết lý, tinh thần thì họ làm rất tốt.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhìn thấy có những điểm còn tiếp tục phải quan tâm.
Thứ nhất, đối với các tập đoàn toàn cầu, khi người ta quan tâm đến việc các đối tác mua hàng nhập nguồn của mình thì tôi thấy mấy tiêu chí.
Thứ nhất tiêu chí cơ bản đó là tiêu chí QCD (Quality, Cost, Delivery), tức là chất lượng, giá thành và vấn đề đảm bảo ổn định giao hàng. Thời gian tới còn có những vấn đề về môi trường, xã hội, quản trị (ESG) mà bắt đầu được quan tâm nhiều trong thời gian gần đây.
Ngay những vấn đề cơ bản như QCD thì các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đâu đó có một chút cần phải tiếp tục cải thiện. Vì mình có thể làm tốt về mặt chất lượng, tuy nhiên giá thành của mình chưa cạnh tranh hay mình có thể đảm bảo giá thành cạnh tranh nhưng lại không đảm bảo sự ổn định trong quá trình giao hàng, có thể theo nhu cầu của một chuỗi cung ứng rất lớn của tập đoàn toàn cầu. Đấy là điểm còn phải tiếp tục cải thiện nữa.
Trong bối cảnh mới, các yếu tố môi trường, xã hội - quản trị đang ngày càng trở nên những yếu tố quan trọng trở thành tiêu chí để các tập đoàn toàn cầu người ta để ý đến và người ta cũng sẽ phải tuân thủ các quy định đấy ở quốc tế nên họ cũng sẽ yêu cầu hệ thống của người ta, các nhà cung ứng cũng sẽ phải đáp ứng theo.
Đấy sẽ là những câu chuyện tiếp theo mà doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu cần phải để ý đến.
BTV Huyền My: Chúng ta đã chia sẻ rất nhiều rằng cả doanh nghiệp FDI cũng như doanh nghiệp Việt Nam đều có nhu cầu tăng cường liên kết trong chuỗi sản xuất cũng như chuỗi cung ứng của mình. Vậy để gia tăng cường sự kết nối với, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp Việt Nam cần thêm trợ lực như thế nào từ nội lực của các doanh nghiệp cũng như các cấp, ngành, địa phương?
Bà Nguyễn Thị Lan Phương - Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:
Để doanh nghiệp có thể đáp ứng và gia nhập vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI hay vươn sân ra toàn cầu thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ cần trợ lực cả từ hai phía: Bản thân nội lực của doanh nghiệp và từ các cơ quan ban, ngành Trung ương và địa phương.
Ở góc độ doanh nghiệp tôi nghĩ rằng anh Hiếu, anh Trung đã có những đánh giá hết sức là cụ thể và ở góc nhìn của mình thì tôi sẽ có vài thông điệp đối với doanh nghiệp về việc sẽ phải thay đổi, tức là chúng ta thay đổi tư duy về việc chúng ta đã hội nhập toàn cầu và sản phẩm của chúng ta muốn đáp ứng được các thị trường FTA như CPTPP thì chúng ta sẽ phải đáp ứng những tiêu chuẩn bây giờ ngày càng khắt khe hơn rồi.
Ví dụ như đối với thị trường EU gần đây chúng tôi sẽ thấy rằng có những quy định mới như CBAM, EUDR hay thẩm định chuỗi cung ứng. Với CPTPP hay những đối tác khác cũng sẽ có xu hướng ngày càng chú trọng hơn vào những tiêu chuẩn như ESG. Vì thế doanh nghiệp sẽ phải hướng mình vào những tiêu chuẩn cao hơn để có thể đủ đáp ứng tiêu chuẩn trong chuỗi FDI.
Thứ hai cũng như anh Hiếu có đề cập, đấy là quyết tâm của ban lãnh đạo về sự thay đổi đó để có thể đáp ứng được việc gia nhập đó. Tuy nhiên, phân tích ở khía cạnh khó khăn của doanh nghiệp có thể đáp ứng được chất lượng nhưng không đáp ứng được giá thành, đáp ứng được chất lượng, giá thành nhưng lại không đáp ứng được sự ổn định. Thế thì một mình doanh nghiệp có lẽ cũng là một điều khó khăn để họ có thể đi một con đường dài như thế và trở thành một thành viên trong chuỗi cung ứng.
Cả cơ quan Trung ương và địa phương thực ra trong suốt thời gian vừa qua, các bộ, ngành của Việt Nam cũng rất nỗ lực vào cuộc để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nâng cao năng lực của mình và đáp ứng tốt hơn tiêu chuẩn của các tập đoàn toàn cầu để gia nhập vào hệ thống và chuỗi cung ứng của họ.
Ở góc độ của mình, tôi nghĩ rằng có rất nhiều chính sách đã và đang đưa ra trong quá trình thời gian vừa qua để cho việc hội nhập được tốt hơn.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây thì góc nhìn của chúng tôi khi mà đi thực thi các FTA đã có những sự thay đổi nhất định, tức là chính sách có thể ra nhưng từ chính sách đấy đi được vào cuộc sống của các doanh nghiệp, đó là cả một câu chuyện đường dài. Nếu như các doanh nghiệp nước ngoài thì chúng tôi cũng thấy rằng với doanh nghiệp nước ngoài sau khi đàm phán FTA về thì đoàn đàm phán sẽ không phải làm nhiều việc, họ chỉ cung cung cấp thông tin lên hệ thống internet là các doanh nghiệp nước ngoài họ có năng lực tốt, họ đã hấp thu được những hiệu lực và cam kết đó.
Nhưng ở doanh nghiệp Việt Nam thì chúng tôi phải thay đổi cách nhìn của mình. Chúng tôi không phải chỉ cung cấp thông tin, công khai thông tin ra và doanh nghiệp tự mình để mà có thể vận dụng được nó.
Bây giờ chúng tôi nghĩ rằng những chính sách đưa ra sẽ phải cụ thể hóa bằng cách từ cơ quan trung ương hay cơ quan địa phương chúng ta phải kết nối với nhau một cách chặt chẽ hơn, đồng bộ hơn và đồng hành với doanh nghiệp một cách thiết thực hơn. Nghĩa là khi ban hành các chính sách đó thì chúng ta sẽ phải hướng dẫn, phải cầm tay chỉ việc cho doanh nghiệp nhiều hơn để họ có thể tiếp cận được. Chúng tôi hiện nay đang có những thiết kế chính sách và chúng tôi thấy rằng ví dụ doanh nghiệp khó về vốn thì chúng tôi sẽ kiến nghị lên Chính phủ và phối hợp với Ngân hàng Nhà nước hay Hiệp hội ngân hàng để tìm ra những giải pháp cụ thể cho doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tốt hơn.
Hay liên quan đến các biện pháp hỗ trợ, chúng tôi tổng kết thực thi tại các tỉnh, thành thì thấy đưa ra rất nhiều biện pháp hỗ trợ nhưng các biện pháp hỗ trợ rất chung chung, không có sự tập trung vào một ngành hàng cụ thể hay không tập trung vào một thị trường cụ thể.
Vì thế các chính sách đó phải thiết kế một cách chi tiết hơn và phải đi đồng hành với doanh nghiệp và đo lường những kết quả đó một cách cụ thể. Vì bản thân trong quá trình làm chính sách đó cũng có những thứ cần phải điều chỉnh và vì thế chúng ta sẽ phải thay đổi cách thực hiện nó để làm sao doanh nghiệp có thể sử dụng được chính sách có tích cực của Chính phủ và ứng dụng được nó để hấp thụ được các lợi ích của các FTA.
Đấy là quá trình mà tôi nghĩ rằng đến thời điểm hiện nay từ phía Chính phủ phải có chính sách, từ phía doanh nghiệp phải có nỗ lực. Nhưng quan trọng nữa đấy là sự kết nối của cả hai phía phải chặt chẽ hơn, phải mạnh mẽ hơn và phải mang tính chất đồng hành với nhau rất chi tiết và cụ thể, giống như doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam như trường hợp Toyota đã đồng hành với nhau.
Con đường đi phía trước chúng tôi thấy rằng chúng tôi còn phải chi tiết, cụ thể và mạnh mẽ hơn nữa.
BTV Huyền My: Xin cảm ơn những chia sẻ rất tâm huyết của bà. Vậy thì trong thời gian tới, sau khi nghe những khuyến nghị từ phía đại diện cơ quan quản lý nhà nước thì CNCTech Thăng Long đặt ra mục tiêu và kế hoạch phát triển như thế nào để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của các doanh nghiệp Nhật Bản nói riêng và các doanh nghiệp FDI nói chung cũng như tận dụng những nguồn lực chuyển giao công nghệ, đầu tư của các doanh nghiệp này?
Ông Nguyễn Thành Trung - CNCTech Thăng Long, Tập đoàn CNCTech:
Với CNCTech, kế hoạch sắp tới của chúng tôi vẫn là làm sao mở rộng sản xuất, nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ kỹ thuật chuyên môn để tăng khả năng cạnh tranh và đồng thời cũng như việc nâng cao hệ thống quản lý bằng cách áp dụng các chuyển đổi số vào trong doanh nghiệp một cách triệt để, đồng thời thúc đẩy việc sản xuất và xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài không chỉ kết hợp làm việc với các doanh nghiệp FDI mà thậm chí xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài.
Hiện tại CNCTech cũng đang thực hiện chuyện đấy và chiến lược thời gian tới sẽ đẩy mạnh hơn. Đối với mong muốn sự hỗ trợ của Nhà nước thì việc đầu tiên là hỗ trợ về vốn. Đấy là tình trạng chung của các công ty Việt Nam: nguồn lực có, nội lực có, nhiệt huyết có nhưng nguồn vốn rất hạn chế, nhiều khi nào đó đã ảnh hưởng. Cho nên chúng tôi mong muốn có thể được cải thiện về chính sách về thuế, làm sao được tiếp cận các nguồn hỗ trợ về vay vốn để có thể mở rộng sản xuất.
Thứ hai mong muốn được hỗ trợ về đẩy mạnh việc xúc tiến đầu tư. Năm vừa rồi thì CNCTech có đi tham gia vào các hội chợ, hội thảo ở nước ngoài, ví dụ như Nagoya ở Nhật Bản hay Chicago, Mỹ nhưng 100% đấy vốn từ CNCTech bỏ ra, còn việc được đầu tư hỗ trợ từ các cấp chính quyền còn hạn chế.
Tôi mong muốn trong thời gian tới thì các cấp chính quyền có thể tạo điều kiện hơn cho các doanh nghiệp có thể tham gia những buổi hội thảo không phải chỉ trong nước mà còn ở quốc tế để chúng ta có thể quảng bá được hình ảnh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Tôi gặp rất nhiều chuyên gia từ nước ngoài, khi mà họ xem các factory touring của CNCTech trên Youtube thì họ rất ngạc nhiên và họ bảo tại sao Việt Nam làm sao mà có thể phát triển được như thế này và thậm chí họ họ cảm thấy đây giống như một công ty của nước ngoài đầu tư vào và xây dựng nó chứ không phải công ty của Việt Nam.
Tức là như tôi nói, hiện tại bây giờ thương hiệu của các công ty Việt Nam chỉ nằm ở trong lãnh thổ Việt Nam thôi. Tôi mong muốn làm sao mà các thương hiệu của Việt Nam phải bước ra được khỏi lãnh thổ Việt Nam thì sự hậu thuẫn của các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền rất quan trọng.
Tiếp nữa là việc hỗ trợ về đào tạo nguồn lao động có trình độ kỹ thuật cao và tiếp cận được những công nghệ tiên tiến là hỗ trợ mà các công ty Việt Nam rất mong muốn. Bởi vì thường các nguồn lao động từ các trường đại học được đào tạo một cách chuyên môn một cách rất bài bản, nhưng thực ra khi vào các doanh nghiệp đều phải học lại từ đầu và đều phải có thời gian để học những cái mới. Bởi vì những kiến thức ở nhà trường chỉ mang phạm trù lý thuyết còn khi ra làm việc tại doanh nghiệp đã thay đổi rất nhanh, thời đại 4.0 thay đổi rất nhanh. Cho nên tôi mong muốn việc hỗ trợ đào tạo nguồn lực một cách thực tế, thực chiến và có hiệu quả mà nó có chất lượng và nhanh nhanh nhất, ngắn nhất để có thể bắt kịp được những nền kỹ thuật của nước ngoài, của những nước công nghiệp phát triển. Đấy là điều mà chúng tôi mong muốn.
BTV Huyền My: Trước bối cảnh các FTA nói chung và CPTPP được thực thi sâu rộng thì Toyota có định hướng như thế nào về việc mở rộng các nhà cung cấp Việt Nam để tận dụng tỷ lệ xuất xứ nội địa, đặc biệt trong tăng cường liên kết chuyển giao công nghệ với doanh nghiệp Việt Nam và chúng ta cần thêm những cơ chế, chính sách nào trong thời gian tới cho các doanh nghiệp Việt Nam, thưa ông?
Ông Nguyễn Trung Hiếu - Công ty Ô tô Toyota Việt Nam:
Chúng tôi làm, thứ nhất đó là vì triết lý của công ty rằng mình làm ở đâu, cố gắng phát triển và đóng góp ở đó đứng chân vững ở đó và gọi là bắt rễ vào đó. Điểm nữa không chỉ đóng góp thông qua sản xuất kinh doanh mà chúng tôi còn cố gắng đóng góp cho cộng đồng sở tại.
Với triết lý đó thì CPTPP giúp chúng tôi thêm một cơ hội, thêm một môi trường tốt hơn để chúng tôi triển khai những triết lý mà mình đã có từ trước. Đấy là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai, đi vào chi tiết có lẽ chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục làm, nhưng sẽ mở rộng hơn theo một cách sáng tạo hơn những cái mà chúng tôi đã kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp, cụ thể sau gần 5 năm triển khai với Bộ Công Thương thì năm ngoái chúng tôi cũng có một cơ hội kết hợp thêm với Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam VASI, qua đó chúng tôi giống như được chắp thêm một cánh tay nối dài bởi VASI cũng rất mạnh mẽ và và nhiệt huyết trong hoạt động phát triển các ngành công nghiệp của Việt Nam.
Điểm nữa, chúng tôi cũng cố gắng tìm kiếm được những người có chung mục đích của mình, cụ thể là chính các đơn vị mà đã được chúng tôi hỗ trợ những năm đầu tiên, họ hiểu được triết lý và họ thấy được đấy cũng là một điểm gì đó mà họ cũng mong muốn được chung tay cùng chúng tôi. Bởi vậy, chúng tôi đã xây dựng một cơ chế gọi là cơ chế đào tạo các đào tạo viên. Chúng tôi chọn những doanh nghiệp mà họ quyết tâm thì chúng tôi nâng họ lên thành các Toyota Hub, họ chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm, những kết quả thành công mà họ đã làm được cho chính bản thân họ cho doanh nghiệp khác, qua đó các doanh nghiệp khác có một niềm tin rằng mình cũng sẽ làm được.
Cuối cùng, không chỉ một mình chúng tôi đơn độc làm mà còn thêm có nhiều người khác cùng làm, cùng chúng tôi và tạo ra một xu thế mà chúng ta cùng chung tay cùng làm.
Đấy là hai điểm mà chúng tôi đã làm.
Như lúc trước tôi cũng có trình bày, trước nay thì chúng tôi làm việc với cấp Trung ương là Bộ Công Thương thì trong thời gian tới chúng tôi cũng cố gắng điều chỉnh các chương trình để cho phù hợp với từng đặc thù của địa phương. Vì mỗi một địa phương có những đặc thù phát triển ngành hàng riêng. Đấy là những điểm mà chúng tôi sẽ làm trong thời gian tới.
Quay trở lại về CPTPP, tôi nghĩ nó là hai chiều, bao gồm có cả cơ hội nhưng cũng là thách thức rất lớn cho các doanh nghiệp. Vì khi mà Việt Nam ký các cam kết quốc tế rất mở như vậy thì chính các nhà đầu tư nước ngoài người ta vào Việt Nam thì đối với chúng tôi chúng tôi có thêm lựa chọn các nhà cung cấp mới. Tuy nhiên, ngược lại các nhà cung cấp đó cũng sẽ cạnh tranh với chính các nhà cung cấp Việt Nam đang đứng chân tại Việt Nam.
Bởi vậy chúng tôi tin rằng một mình phía doanh nghiệp của Toyota hay phía các hiệp hội cũng chưa thể một mình giúp được mà cần sự chung tay đồng hành của cơ quan quản lý nhà nước cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Ví dụ về vấn đề chi phí sản xuất, giá thành sản xuất thì chúng tôi có phân tích và thấy rằng rằng một trong những yếu tố đầu vào đó là chi phí, làm thế nào để giảm được chi phí vốn.
Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam họ đã đầu tư máy móc, thiết bị, máy cái họ có rồi, lấy ví dụ có một máy dập rồi hay một máy đùn ép nhựa rồi. Tuy nhiên khi có đơn hàng hay có cơ hội để cung cấp một linh kiện đặc thù mới thì họ phải đầu tư thêm những khuôn mẫu đồ gá mới. Lúc đó họ phải cân nhắc xem có nên đầu tư hay không. Vì nếu đầu tư có khi không hiệu quả do chi phí đầu tư khuôn mẫu đồ gá khá cao. Mặc dù đã có máy cái nhưng khuôn đặc thù cho thiết bị đó họ chưa dám đầu tư.
Bởi vậy một trong những ý tưởng mà chúng tôi cân nhắc và xin phép được đề nghị nhân trong tọa đàm này. Đó là cơ quan quản lý nhà nước cân nhắc hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc mua khuôn đồ gá khi có những dự án phù hợp với các tiêu chí của nhà nước như ứng dụng công nghệ cao hay các công nghiệp trọng điểm thì tận dụng những trang thiết bị phần cứng đã có đầu tư nhưng mình khai thác nó một cách hiệu quả hơn, tận dụng tối đa không để cho máy chết. Bằng cách đó sẽ làm cho các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được chi phí. Đấy là kiến nghi mà tôi xin phép được đóng góp về chi phí đầu vào.
Còn đầu ra thì Việt Nam dù sao vẫn là một nền kinh tế là còn đang phát triển và bởi vậy tiềm năng; bởi vậy làm sao để có thể tạo ra một thị trường đủ lớn cho các doanh nghiệp. Khi mà thị trường đủ lớn thì các doanh nghiệp sẽ có sự tự tin để họ đầu tư vào sẽ khác và để có được thị trường đủ lượng, đủ lớn thì các chính sách của các cơ quan bộ, ngành nhà nước phải đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả như chị Phương có nói từ chính sách cho đến lúc áp dụng phải hiệu lực, hiệu quả. Một trong những yếu tố để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả làm sao mà chính sách tránh chồng chéo, vừa tránh lãng phí cho nguồn lực của nhà nước cho ưu đãi nhưng đồng thời cũng tăng hiệu quả của chính sách vào cuộc sống.
BTV Huyền My: Sau khi lắng nghe những chia sẻ của các vị khách mời là đại diện các doanh nghiệp thì ở góc độ cơ quan quản lý nhà nước, Bộ Công Thương sẽ có những hành động như thế nào để thúc đẩy khả năng tận dụng CPTPP của doanh nghiệp nói chung, đặc biệt gia tăng sự tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất của các doanh nghiệp trong CPTPP nói riêng, thưa bà Nguyễn Thị Lan Phương?
Bà Nguyễn Thị Lan Phương - Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:
Hằng năm chúng tôi đều có báo cáo kết quả thực thi các FTA nói chung lên Thủ tướng Chính phủ. Năm 2022 chúng tôi cũng thực hiện công việc đó và chúng tôi đã đề xuất lên Chính phủ một lượng giải pháp rất lớn và đưa vào nhiều nhóm giải pháp khác nhau, từ giải pháp công tác tuyên truyền, phổ biến phải thay đổi như thế nào sâu sắc hơn, đúng chủ đề hơn. Về vấn đề thể chế, chúng ta sẽ phải thể chế, chính sách làm sao mà ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nội luật hóa cam kết phải kịp thời và những văn bản pháp luật nào còn khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp cũng phải kịp thời tháo gỡ, điều chỉnh cho phù hợp hơn, không chồng chéo mà đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và chúng tôi còn có giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải pháp liên quan tới việc các biện pháp hỗ trợ phải thiết thực hơn.
Với hàng loạt các giải pháp đề xuất đó thì năm 2023 chúng tôi đã được phê duyệt 5 giải pháp đều rất tổng thể, ví dụ như có giải pháp liên quan đến vốn và tín dụng, có giải pháp liên quan tới đào tạo nguồn nhân lực là chúng tôi sẽ làm quá trình train to trainer để đào tạo ra một nguồn nhân lực tốt hơn như anh Hiếu có nói hoặc anh Trung như mong muốn phải có các chuyên gia để đào tạo và hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
Trong tất cả những giải pháp đấy thì đến thời điểm hiện nay chúng tôi đang tập trung vào một giải pháp quan trọng nhất là giải pháp xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA.
Lý do bởi vì suy cho cùng tất cả những yếu kém về vốn hay yếu kém về nhân lực hay yếu kém kết nối khác đều ở khâu kết nối của chúng ta, kết nối thiếu về mặt thông tin hoặc sự trung chuyển với nhau giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp và hệ sinh thái ở đây khác biệt với những kết nối trước đây.
Ví dụ các anh chị sẽ có thể thấy kết nối trong chuỗi chuỗi giá trị, kết nối ba nhà hoặc các hiệp hội cũng đang thực hiện những công việc hỗ trợ kết nối rất tốt nhưng ở đó vẫn thiếu. Tức là doanh nghiệp vẫn cứ thực hiện việc của doanh nghiệp, phần Chính phủ vẫn làm việc kết nối của Chính phủ nhưng không có sự kết nối giữa hai cái khâu đấy với nhau.
Thế thì chúng tôi thiết kế ra một mô hình hệ sinh thái dự kiến theo kế hoạch của chúng tôi tháng 5 sang năm chúng tôi sẽ trình Chính phủ và tháng 9 sang năm nếu như được Chính phủ phê duyệt thì có thể xây dựng được bộ máy nhân lực đi vào vận hành với một mô hình áp dụng là chúng tôi sẽ có cơ quan quản lý trung ương và cơ quan quản lý địa phương kết hợp với nhau trong một nhóm, tổ công tác và phía doanh nghiệp thì chúng tôi sẽ thành lập lên một Hội đồng điều hành doanh nghiệp, ở đó những ngành hàng xuất khẩu Việt Nam thế mạnh sẽ được lựa chọn ra và kết hợp với nó là các hiệp hội về vốn như Hiệp hội ngân hàng; về logistics sẽ mời Hiệp hội Logistics tham gia; về thể chế chúng tôi có thể mời VCCI hoặc là VinaSME là các hiệp hội doanh nghiệp lớn và chúng ta sẽ tập trung vào đấy, đưa ra những giải pháp và kế hoạch hành động hằng năm để có thể thực hiện một cách thiết thực.
Điều quan trọng, những kiến nghị của các doanh nghiệp từ phía doanh nghiệp sẽ có một bộ phận thụ lý và chuyển lên các cơ quan quản lý nhà nước và sẽ giúp cho quá trình giám sát, xử lý những kiến nghị đó được kịp thời. Ví dụ, một lô hàng mà đang tắc nghẽn ở một nước A hay nước B thì doanh nghiệp hoàn toàn có thể đưa lên Hội đồng điều hành doanh nghiệp đó và thông qua cơ chế đó sẽ chuyển lên Tổ công tác; nếu đấy thuộc phạm vi của ngành hải quan hay thuộc phạm vi của Công Thương thì chúng tôi sẽ chuyển những kiến nghị đó và có quá trình giám sát và những kiến nghị đó. Như anh Hiếu có nói nếu cơ chế chính sách chồng chéo như đợt vừa rồi chúng tôi có đi Bình Phước tham vấn về vấn đề điều thì cũng có những nghị định này về thuế, nghị định kia thì có những thứ mà cần phải hoàn thiện hơn. Qua cơ chế đó chúng tôi cũng sẽ fast-track đưa những kiến nghị đến được đúng bộ phận có thể tiếp thu và xử lý cũng như nếu như đúng thẩm quyền thì họ sẽ xử lý ngay, nếu như vượt thẩm quyền thì họ sẽ báo cáo cấp trên để có thể xử lý tốt hơn.
Vì thế mà mong muốn của chúng tôi trong mô hình hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA là tăng cường kết nối để tận dụng FTA tốt hơn và cũng xây dựng một văn hóa đạo đức kinh doanh tốt hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Ở đó chúng tôi mong muốn những doanh nghiệp tham gia là những doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững, những doanh nghiệp hướng tới thương hiệu và những doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng. Bởi vì chúng tôi cũng không muốn câu chuyện cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp, không công bằng với nhau để đạt được lợi ích của mình mà chúng ta phải nghĩ đến lợi ích của ngành và lợi ích của quốc gia trong quá trình và sự phát triển đó.
BTV Huyền My:
Sau khi lắng nghe các vị khách mời chia sẻ, có thể thấy việc thúc đẩy liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp Việt Nam, tham gia chuỗi cung ứng, sản xuất của các doanh nghiệp FDI có vai trò quan trọng trong bối cảnh thực thi các FTA nói chung và CPTPP nói riêng.
Trong thời gian tới, khi các nước thành viên CPTPP đang tiến hành rà soát tổng thể toàn bộ việc thực thi Hiệp định này, nhằm tạo ra không gian hợp tác mới. Quá trình thực thi Hiệp định cũng cho thấy, dư địa để tăng trưởng, trao đổi thương mại còn rất lớn, trong đó, tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam với các nước CPTPP còn rất nhiều.
Bên cạnh đó, việc Vương quốc Anh gia nhập CPTPP và nhiều nền kinh tế khác cũng xin gia nhập sẽ tạo thêm cơ hội phát triển hợp tác. Đây là cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam tăng cường hợp tác đầu tư, thu hút nguồn lực và liên kết với các đối tác từ thị trường CPTPP, từ đó tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu khi Hiệp định bước sang giai đoạn thực thi mới.
Để làm được điều đó, rất cần có thêm sự đồng hành từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, Hiệp hội ngành hàng, đặc biệt thông qua các cơ chế, chính sách và hoạt động hỗ trợ phù hợp để thúc đẩy khả năng tận dụng CPTPP của doanh nghiệp, đặc biệt trong việc tận dụng nguồn lực nhập khẩu, đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Về phía mình, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong việc liên kết với nhau để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, tích cực tiếp cận và tìm kiếm đối tác, nắm bắt cơ hội kết nối hợp tác, chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn đa quốc gia, qua đó tận dụng hiệu quả cơ hội mà CPTPP mang lại.
Một lần nữa xin cảm ơn các vị khách mời đã tham gia Tọa đàm ngày hôm nay tại trường quay cũng như qua nền tảng trực tuyến.
Xin chào quý vị, và hẹn gặp lại.