Giá nông sản 31/7: Lúa gạo điều chỉnh tăng, hồ tiêu tiếp tục đi ngang

Lúa gạo điều chỉnh tăng, hồ tiêu đi ngang, cao su biến động trái chiều, cà phê đồng loạt giảm cả thị trường trong nước lẫn quốc tế.

Giá cà phê đồng loạt giảm

Giá cà phê trong nước giảm nhẹ 500 đồng so với ngày hôm qua nằm trong khoảng 123.000-123.600 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 123.400 đồng/kg, giá mua cao nhất tại các tỉnh Đắk Nông là 123.600 đồng/kg.

Giá cà phê đồng loạt giảm

Giá cà phê đồng loạt giảm

Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 123.300 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 123.200 đồng/kg; tại tỉnh Kon Tum cà phê được thu mua ở mức giá 123.300 đồng/kg; tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 123.600 đồng/kg.

Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 123.000 đồng/kg.

Giá cà phê hôm nay ngày 31/7 tại tỉnh Đắk Lắk giảm nhẹ 500 đồng/kg so với ngày hôm qua; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 123.400 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 123.300 đồng/kg.

Theo số liệu của Hải quan, Việt Nam đã xuất khẩu 70.000 tấn cà phê trong tháng 7/2024, giảm 35,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 7 tháng đầu năm, xuất khẩu cà phê của Việt Nam giảm 13,8% so với cùng kỳ, đạt 964.000 tấn.

Tuy nhiên, theo Tổng cục Thống kê, doanh thu xuất khẩu cà phê trong cùng kỳ tăng 31% đạt 3,5 tỷ USD. Dự báo sản lượng xuất khẩu sẽ tiếp tục giảm thêm 3 tháng nữa, cho đến khi bắt đầu thu hoạch mùa vụ mới vào tháng 10, tháng 11.

Từ đầu năm đến nay, thị trường nông sản Việt Nam đã ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực. Theo báo cáo từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong nửa đầu năm 2024, kim ngạch của nhóm nông sản chính đã đạt 15,76 tỷ USD, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, 7 sản phẩm và nhóm sản phẩm vượt mốc 1 tỷ USD là cà phê, cao su, gạo, rau quả và hạt điều. Cà phê là sản phẩm nổi bật nhất với mức tăng trưởng đột biến.

Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London ngày 31/7/2024 lúc 4h30 giảm ở mức 3.843 - 4.266 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 4.266 USD/tấn (giảm 1 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 11/2024 là 4.118 USD/tấn (giảm 4 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 1/2025 là 3.969 USD/tấn (giảm 4 USD/tấn) và kỳ hạn giao hàng tháng 3/2025 là 3.843 USD/tấn (giảm 3 USD/tấn).

Giá cà phê Arabica trên sàn New York sáng ngày 31/7/2024 mức tăng từ 226.20 - 230.80 ent/lb. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 230.80 cent/lb (tăng 0.17%); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 229.60 cent/lb (tăng 0.11%); kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 228.30 cent/lb (tăng 0.07 %) và kỳ giao hàng tháng 5/2025 là 226.20 cent/lb.

Giá tiêu tiếp tục đi ngang

Ghi nhận mới nhất, giá tiêu hôm nay tiếp tục đi ngang trên toàn quốc. Hiện tại, thương lái ở Đắk Lắk, Bà Rịa - Vũng Tàu và Đồng Nai, Đắk Nông tiếp tục thu mua hồ tiêu với giá cao nhất là 150.000 đồng/kg. Thấp hơn ở mức 149.000 đồng/kg là giá thu mua tại hai tỉnh Gia Lai và Bình Phước.

Giá tiêu tiếp tục đi ngang

Giá tiêu tiếp tục đi ngang

Trên thị trường thế giới, giá giao dịch tiêu đen Lampung (Indonesia) giảm 0,21%; giá thu mua tiêu đen Brazil ASTA 570 và giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA duy trì ổn định so với ngày 29/7; giá thu mua tiêu trắng Muntok giảm 0,21% và giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có thay đổi mới.

Giá tiêu xuất khẩu của Brazil sang Việt Nam đạt bình quân 3.488 USD/tấn, tăng 19% so với nửa đầu năm ngoái, nhưng thấp nhất trong số 15 quốc gia nhập khẩu tiêu hàng đầu từ Brazil. Đồng thời thấp hơn đáng kể so với mức giá xuất khẩu bình quân 4.454 USD/tấn của Việt Nam ra thị trường quốc tế trong cùng thời gian.

Giá cao su tăng, giảm trái chiều

Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,31% lên mức 319,1 Yên/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 31/7 (giờ Việt Nam).

Giá cao su tăng, giảm trái chiều

Giá cao su tăng, giảm trái chiều

Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 1,53% ở mức 14.345 Nhân dân tệ/tấn.

Trong 10 ngày giữa tháng 7/2024, giá mủ chén và mủ nước tại các tỉnh, thành phố trên cả nước giảm so với 10 ngày trước đó. Tại các công ty cao su, hiện giá thu mua mủ cao su nguyên liệu duy trì quanh mức 345 - 390 đồng/TSC, giảm 3 - 5 đồng/TSC so với 10 ngày trước đó.

Trong 6 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam, nhưng lượng cao su xuất khẩu sang thị trường này giảm so với cùng kỳ năm 2023.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 489,37 nghìn tấn cao su, trị giá 717,9 triệu USD, giảm 16% về lượng và giảm 8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Xuất khẩu cao su sang Trung Quốc chiếm 67,35% về lượng và chiếm 64,8% về trị giá trong tổng xuất khẩu cao su của cả nước trong 6 tháng đầu năm 2024.

Giá lúa gạo đồng loạt tăng

Giá lúa gạo hôm nay, 31-7, tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh tăng mạnh so với một số loại lúa và gạo. Giá gạo tăng 800 - 900 đồng/kg, giá lúa tăng 100 - 400 đồng/kg.

Giá lúa gạo đồng loạt tăng

Giá lúa gạo đồng loạt tăng

Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương, giá lúa ổn định, giao dịch chậm. Cụ thể, tại Cần Thơ nhu cầu hỏi mua lúa Thu Đông nhiều, nông dân chào giá cao. Tại Sóc Trăng thương lái hỏi mua nhiều, giao dịch ổn định, giá lúa tăng nhẹ.

Trên thị trường lúa, giá lúa hôm nay ghi nhận có sự thay đổi so với hôm qua (30-7), IR 50404 giá dao động quanh mốc 6.900 - 7.000 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở mức giá 7.400 - 7.600 đồng/kg tăng 300 - 400 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ở mức 7.000 - 7.200 đồng/kg, tăng 100 đồng; lúa OM 18 có giá 7.400 - 7.600 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; lúa OM 380 dao động 6.800 - 7.000 đồng/kg; lúa Nhật Bản ở mốc ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 giá 6.900 - 7.000 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.

Với mặt hàng gạo, giá gạo ghi nhận có điều chỉnh so với hôm qua. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 hè thu ở mức 10.900 - 11.000 đồng/kg tăng 800 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 lên mức 13.000 - 13.200 đồng/kg tăng 900 đồng/kg.

Thị trường gạo tại các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung giao dịch chậm, ít gạo đẹp, giá tăng nhẹ. Cụ thể, tại An Cư (Sóc Trăng), nguồn về ít, giá tăng cao, khó mua gạo đẹp. Tại Sa Đéc (Đồng Tháp) nguồn về ít, lựa gạo đẹp, giá gạo tăng cao.

Tại các chợ lẻ, giá gạo ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 30.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng Hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan (Trung Quốc) 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật Bản giá 22.000 đồng/kg.

KHÁNH LINH (t/h)

Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/gia-nong-san-31-7-lua-gao-dieu-chinh-tang-ho-tieu-tiep-tuc-di-ngang-204240731121657758.htm