Giá nông sản ngày 5/6: Hồ tiêu thiết lập đỉnh mới, gạo trong nước tăng nhẹ
Giá tiêu duy trì đà tăng ở nhiều nơi, cao su trên hai sàn giao dịch cùng giảm, gạo trong nước tăng nhẹ, cà phê trên thị trường thế giới ghi nhận đồng loạt giảm.
Cà phê thế giới quay đầu giảm
Thị trường cà phê trong nước hôm nay giao dịch nằm trong khoảng 122.000 - 123.500 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 123.200 đồng/kg, giá mua cao nhất tại tỉnh Đắk Nông 123.500 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 123.000 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 122.900 đồng/kg Tại tỉnh Kon Tum ở mức giá 123.000 đồng/kg; Tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 123.500 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 122.000 đồng/kg.
Cập nhật giá cà phê hôm nay 5/6/2024, giá cà phê trực tuyến, cà phê Tây Nguyên, cà phê Lâm Đồng, cà phê Kon Tum, cà phê nhân, cà phê Arabica hôm nay 5/6/2024.
Giá cà phê thế giới rạng sáng ngày 5/6/2024, lúc 4 giờ 20 phút được cập nhật trên sàn giao dịch Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam MXV (giá cà phê thế giới được MXV cập nhật liên tục, khớp với các sàn giao dịch trên thế giới, là kênh duy nhất ở Việt Nam cập nhật liên tục liên kết với các sàn giao dịch trên thế giới).
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London ngày 5/6/2024 lúc 4h30 tăng mạnh, mức tăng 3.846 - 4.319 tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 7/2024 là 4.319 USD/tấn (tăng 47 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 4.179 USD/tấn (tăng 69 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 11/2024 là 4.020 USD/tấn (tăng 67 USD/tấn) và kỳ hạn giao hàng tháng 1/2025 là 3.846USD/tấn (tăng 39USD/tấn).
Tương tự,giá cà phê Arabica trên sàn New York sáng ngày 4/6/2024 cũng tăng mạnh, mức tăng từ 5.10 - 5.40 cent/lb. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 7/2024 là 231.95 cent/lb (tăng 5.40%); kỳ giao hàng tháng 9/2024 là 230.80 cent/lb (tăng 5.30%); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 229.00 cent/lb (tăng 5.10%) và kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 227.80 cent/lb ( tăng 5.15%).
Theo Fairtrade International, điều kiện thời tiết không thuận lợi, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á và Nam Mỹ, đang làm đảo lộn “sự cân bằng mong manh giữa cung và cầu” và đang đẩy giá mặt hàng cà phê lên cao.
Tổ chức này cho hay, hạn hán kéo dài ở Việt Nam đã gây thiệt hại cho cây trồng. Trong khi đó, Brazil đang phải hứng chịu những trận mưa lớn ảnh hưởng đến vụ thu hoạch cà phê.
Họ cho rằng, những bất ổn về khí hậu, sự gián đoạn trong các tuyến thương mại quốc tế và tính chất đầu cơ của nhiều danh mục đầu tư đã “tạo ra một cơn bão hoàn hảo trên thị trường cà phê thế giới”.
Giá tiêu tiếp đà tăng
Ở trong nước, thị trường hồ tiêu ngày 5/6 biến động trái chiều so với hôm qua. Cụ thể, Đắk Lắk giảm 1.000 đồng, thu mua hồ tiêu về giá 142.000 đ/kg;
Tương tự, giá hồ tiêu Đắk Nông hôm nay giao dịch xuống mức 143.000 đ/kg; Giá tiêu Gia Lai hôm nay neo tại ngưỡng 142.000 đ/kg;
Thương lái Đồng Nai vẫn thu mua hồ tiêu ở giá 142.000 đ/kg; Giá hồ tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu mới nhất ngày 5/6 ở ngưỡng 142.000 đ/kg, tăng 1.000 đồng;
1.000 đồng, thương lái Bình Phước giao dịch hồ tiêu về giá 143.000 đ/kg. Trên thế giới, thị trường hồ tiêu ngày 5/6 vẫn tăng ở Indonesia nhưng đi ngang ở các quốc gia khác.
Theo đó, giá hạt tiêu đen Lampung tại Indonesia tăng thêm 0,02%; lên mức 5.634 USD/tấn. Còn giá hạt tiêu trắng Muntok của quốc gia này tăng nhẹ 0,03%; ở ngưỡng 7.424 USD/tấn.
Giá hồ tiêu đen Kuching ASTA của Malaysia duy trì ổn định ở mức 4.900 USD/tấn; còn hồ tiêu trắng ASTA của quốc gia này vẫn có giá 7.300 USD/tấn. Đối với thị trường Brazil, giá hạt tiêu đen ASTA 570 neo tại mức 5.900 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu loại 500 và 550 g/l lần lượt giữ ở mức 5.400 và 5.900 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng xuất khẩu neo tại mốc 8.000 USD/tấn. Hồ tiêu thế giới hôm nay tiếp tục đà tăng ở Indonesia và duy trì ổn định tại các thị trường khác.
Tuần qua, giá hồ tiêu nội địa và quốc tế của Ấn Độ đều tăng. Tương tự, giá tiêu trong nước của Sri Lanka tiếp tục có thêm tuần thứ 3 tăng.
Tại Đông Nam Á, mặc dù đồng Rupiah giảm 1% so với USD (16.165 IDR/USD), giá hồ tiêu nội địa và xuất khẩu của Indonesia tiếp tục tăng trong 2 tuần qua khi một số nông dân ở tỉnh Bangka đã trữ tiêu đợi giá cao hơn.
Ông Hoàng Phước Bính, Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Hồ tiêu Chư Sê (Gia Lai), cho biết, nhìn lại lịch sử các chu kỳ giá trước đây, giá tiêu trong chu kỳ lần này có thể sẽ vượt đỉnh ở chu kỳ giá trước - mức 250.000 đồng/kg vào năm 2015, và có khả năng sẽ đạt tới 350.000 - 400.000 đồng/kg ở đỉnh chu kỳ. Đây là những mức giá cao chưa từng có trong lịch sử.
Chỉ có giá hồ tiêu nội địa Malaysia tiếp tục tăng trong 3 tuần qua. Trong khi đó giá xuất khẩu nước này duy trì ổn định và không thay đổi. Còn giá hồ tiêu nội địa và xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng trong 4 tuần qua khi nông dân tại Việt Nam trữ tiêu nhiều hơn là bán.
Bên cạnh đó, giá hạt tiêu đen Brazil tăng mạnh trong tuần trước, báo cáo bởi nhà xuất khẩu Brazil, lý do chính khiến giá tăng là do mất mùa hàng loạt tại bang Espirito Santom – vùng sản xuất tiêu chính của Brazul do El Nino, do đó những người nông dân đã trữ tiêu lại. Còn giá hạt tiêu đen Campuchia ổn định, giá hạt tiêu trắng Trung Quốc ghi nhận giảm trong tuần này.
Giá gạo trong nước tăng nhẹ
Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục điều chỉnh tăng với gạo và giữ ổn định với lúa. Trong đó với mặt hàng lúa, cập nhật từ từ Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, lúa IR 50404 giá dao động quanh mốc 7.400 - 7.500 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ổn định 7.600 - 7.700 đồng/kg; lúa OM 380 dao động từ 7.500 - 7.600 đồng/kg. Nàng Hoa 9 giá 7.600 - 7.700 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg; lúa Đài thơm 8, lúa OM 18 và lúa Nhật đều có cùng giá bán khoảng 7.800 - 8.000 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay tiếp tục đà giảm. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 577 USD/tấn, giảm 2 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 558 USD/tấn; gạo 100% tấm duy trì ổn định ở mức 478 USD/tấn.
Trong chưa đầy nửa năm, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam từ cao hàng đầu thế giới đã đảo chiều, giảm về thấp nhất trong nhóm các nước xuất khẩu chủ lực.
Cao su 2 sàn đồng loạt giảm
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 0,36% lên mức 332,8 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 5/6 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 1,63% ở mức 14.800 Nhân dân tệ/tấn.
Theo ước tính, xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 5/2024 đạt khoảng 80 nghìn tấn, trị giá 129 triệu USD, tăng 8,7% về lượng và tăng 10% về trị giá so với tháng 4/2024, nhưng giảm 31,7% về lượng và giảm 18,3% về trị giá so với tháng 5/2023. Giá xuất khẩu cao su bình quân tháng 5/2024 ở mức 1.616 USD/tấn, tăng 1,2% so với tháng 4/2024 và tăng 19,6% so với tháng 5/2023.
Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cao su của Việt Nam ước tính đạt khoảng 568 nghìn tấn, trị giá 854 triệu USD, giảm 3,1% về lượng và giảm 5,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Trong 4 tháng đầu năm 2024, các chủng loại cao su xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280), Latex, SVR 10, SVR 3L, SVR CV60, RSS3, SVR CV50...
KHÁNH LINH (t/h)