Giá trị to lớn, sâu sắc của bản Tuyên ngôn Độc lập
Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và công bố trước toàn thể quốc dân và thế giới ngày 2/9/1945 là một văn kiện chính trị - pháp lý có giá trị lịch sử to lớn và ý nghĩa thời đại vô cùng sâu sắc. Từ đây, mở ra một kỷ nguyên mới: Độc lập, tự do của nước Việt Nam sau 80 năm bị giặc Pháp đô hộ và một nghìn năm dưới chế độ phong kiến.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 22/8/1945, Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Với tầm nhìn xa, sáng suốt của một nhà lãnh đạo cách mạng vĩ đại, sáng ngày 26/8, trong phiên họp đầu tiên của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra đề nghị phải soạn thảo ngay bản Tuyên ngôn Độc lập để trình bày trước quốc dân tại cuộc mít tinh ở Hà Nội vào ngày 2/9/1945.
Sau khi được Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí, trong các ngày 28 và 29/8/1945, ban ngày, Bác đến trụ sở của Chính phủ lâm thời tại 12 Ngô Quyền làm việc và dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Buổi tối, Bác trở về số nhà 48 phố Hàng Ngang, một căn buồng vừa là phòng ăn, phòng tiếp khách, vừa là nơi làm việc, tự mình đánh máy bản Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 30/8, Bác đã mời một số cán bộ đến trao đổi, góp ý cho bản thảo do Người soạn thảo và hôm sau (31/8), Bác bổ sung thêm vào bản dự thảo. Vào hồi 14 giờ ngày 2/9/1945, tại Vườn hoa Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào, trên lễ đài trang nghiêm, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Về cơ sở pháp lý: Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Bác đã trích dẫn lời bất hủ của bản Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Việc Bác khéo léo trích dẫn về “quyền con người” trong bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp - hai cường quốc trên thế giới, trong đó nước Pháp mới đây đô hộ nước ta, cho thấy Người muốn khẳng định trước thế giới rằng, cách mạng Việt Nam là sự nối tiếp con đường tiến hóa của nhân loại đã và sẽ đi tới: “giải phóng con người”; qua đó, tạo cơ sở pháp lý, căn cứ vững chắc cho toàn bộ bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Và cũng từ tuyên ngôn của Mỹ, Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng lên thành quyền của cả dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Về cơ sở thực tiễn: Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những bằng chứng thực tế mà kẻ thù không thể chối bỏ, đó là: Vạch trần bản chất công cuộc “khai hóa” và “bảo hộ” của thực dân Pháp là đã thi hành nhiều chính sách dã man về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục; hai lần bán nước ta cho Nhật “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật” (vào năm 1940, 1945), khiến cho “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”; phản bội Đồng minh, không hợp tác với Việt Minh mà còn thẳng tay khủng bố Việt Minh. Nhân dân Việt Nam đã anh dũng chống ách nô lệ hơn 80 năm của thực dân Pháp, đứng về phía Đồng minh chống phát xít và giành độc lập tự do từ tay Nhật “Sự thật là từ mùa Thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật”, “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
Việc đưa ra cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và cách lập luận chặt chẽ, sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng tạo lập nền tảng vững chắc không chỉ cho sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn cho cuộc Tổng tuyển cử và sự ra đời của bản Hiến pháp 1946; đồng thời cũng đảm bảo cho nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với tư cách là một nước độc lập, có chủ quyền, đấu tranh để giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
Trên cơ sở pháp lý và thực tiễn đã nêu ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nước ta, Nhân dân ta đã “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam” và tỏ thái độ tin tưởng chắc chắn rằng: “Các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”.
Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập là một lời tuyên bố và lời thề thiêng liêng biểu thị quyết tâm sắt đá giữ vững nền độc lập, tự do của Tổ quốc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đây là lời tuyên bố, lời thề mang ý nghĩa lịch sử to lớn, thể hiện sâu sắc ý chí, khát vọng độc lập, tự do của Nhân dân Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập là bản hùng ca chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, tiếp nối các bản hùng ca được xem là những bản tuyên ngôn độc lập dân tộc như: “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt; “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi... nhưng được Bác Hồ nâng lên tầm cao khát vọng và ý chí thiêng liêng về nền độc lập dân tộc trong suốt mấy nghìn năm lịch sử; đồng thời khẳng định lòng quyết tâm sắt đá bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do với triết lý nhân sinh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh giữa các giá trị truyền thống anh hùng, bất khuất và ý chí độc lập dân tộc của Việt Nam với các giá trị thời đại của giai cấp vô sản thế giới có sứ mệnh cao cả và vĩ đại là giải phóng các dân tộc và nhân loại thoát khỏi áp bức, bất công để xây dựng một xã hội tiến bộ, con người sống bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, cách mạng Việt Nam và các phong trào cách mạng thế giới có cùng chung mục tiêu phấn đấu và trở thành một bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới.
Năm tháng qua đi, nhưng bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh - một áng “thiên cổ hùng văn” lập quốc - vẫn trường tồn mãi mãi trong lòng dân tộc Việt Nam bởi không chỉ giá trị lịch sử, pháp lý to lớn mà còn cả giá trị nhân văn sâu sắc về quyền con người và quyền độc lập, tự do của dân tộc.