Giá trị vốn cổ trong cuộc sống hôm nay

Vốn cổ là sản phẩm văn hóa của biết bao đời kế tiếp nhau bảo tồn và sáng tạo trải dài theo dòng lịch sử lưu truyền cho hậu thế. Kho tàng văn hóa dân gian ấy của mỗi tộc người rất phong phú, đa dạng, phản ánh nhiều mặt của cuộc sống trên khắp các vùng, miền.

Sản phẩm văn hóa ấy nằm ở trong dân gian bằng hình thức truyền miệng được ghi chép ở các sách Hán - Nôm. Song, do nhiều nguyên nhân tác động nên nguồn vốn ấy cũng bị mai một, lần lượt ra đi theo các cụ về với tổ tiên mà không chờ con cháu sưu tầm, khai thác. Thật tiếc thay, vàng bạc mất đi còn có thể khai thác được, nhưng vốn cổ mất sẽ mãi đi vào quá khứ không còn quay trở lại.
Tuy nhiên vốn cổ vẫn đang còn lắng đọng với lớp người cao tuổi, nhất là với nghệ nhân và các nhà tri thức dân gian - những người luôn say mê quý trọng vốn tài sản vô giá ấy, nhưng quỹ thời gian còn lại của cuộc đời không còn nhiều. Nếu chúng ta cứ để vốn quý ấy trôi đi mà không biết giữ lại là có lỗi với hậu thế. Với nhiều người đam mê, vốn cổ là nguồn cảm hứng sáng tạo, họ mong muốn kiếm tìm trong cuộc sống nhân gian. Với họ, không phải mọi thứ đã cũ đều lạc hậu và cũng không phải cái mới lạ đều văn minh. Thứ mà chúng ta mãi kiếm tìm là cái tinh hoa của cả quá khứ và hiện tại để định hướng tương lai. Do vậy, giá trị vốn cổ vẫn luôn có mặt trong cuộc sống đời thường. Đặc biệt, trong kho tàng văn hóa dân gian Tày rất phong phú, nhiều câu thơ cổ vẫn còn nguyên giá trị trong cuộc sống hôm nay.

Ví dụ trong thơ cúng tế Thổ công (Thành Hoàng) có đoạn như sau: “Pu đáy xực ăn bán/Pu đáy quán ăn xôn (thôn)/Slưa slang bâu hâứ qua/Phja bâu hâứ hát mà/Xu pu bâu thinh pác khần loen/Mừ phu bâu căn xèn khần nhấn!”. Dịch nghĩa: “Ông có quyền giữ bản/Ông được qua cái thôn/Hổ lang không cho vào/Ôn dịch không cho đến/Tại ông không nghe lời xúc xiểm/Tai ông không đón tiền đút lót!”.

Hai câu đầu xác định rõ thẩm quyền, hai câu giữa quy định nhiệm vụ, hai câu cuối khẳng định tư cách đạo đức, phẩm chất của ông Thổ công. Với ước vọng trong tâm linh của người xưa như vậy mà ta cũng thấy rất gần gũi với cuộc sống hôm nay, đó là vấn đề cải cách hành chính, là chống tham nhũng, là đạo đức cách mạng... Nếu người cán bộ, đảng viên cũng dứt khoát, rõ ràng như ông Thổ công thì mới thực sự là người đầy tớ của nhân dân.

Trong sự phân minh chính - tà, thực - hư, các cụ xưa luôn có một niềm tin vào lẽ phải nên có những câu thơ rất triết lý, như: “... Phái slại chả hết lụa nàn phền/Thoòng xu chả hết kim năn piến/Nận tang dầu tém then slừ quang!...”. Dịch nghĩa: “... Vải thô khó biến thành lụa gấm/Vàng thật không thể lẫn đồng thau/Nước lã thay dầu đâu thắp sáng!”...

Những câu thơ trên của người xưa để lại vẫn còn giữ nguyên giá trị trong cuộc sống hôm nay. Trong thế sự ở đời người xưa cũng có sự nhận xét tinh tế để nói về thời thế - thế thời: “Luồng thất slí piên ngù xoòn nhá/Hên slộp slí le hóa phền slưa...!”. Dịch nghĩa: “Rồng thất thời hóa rắn luồn cỏ/Cáo gặp thời hóa hổ ra oai”!

Trình diễn những làn điệu dân ca tại các lễ hội góp phần bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Ảnh: Thế Vĩnh

Trình diễn những làn điệu dân ca tại các lễ hội góp phần bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Ảnh: Thế Vĩnh

Những câu thơ cổ được lưu truyền miệng nhưng mang giá trị văn hóa rất cao, là chuẩn mực sống để răn dạy con cháu. Trong dân gian khi bắt được con bọ ngựa (hoặc con cào cào) người ta bày ra một trò chơi vui như thế này: Lấy hai ngón tay kẹp hai cẳng của con vật, hướng đầu nó vào rừng, vào bản và hỏi bằng thơ: “Đông slâừ mì nạn?/Bản sâừ mì slưa?/Ngoắc thua thăn thăn!”. Dịch nghĩa: “Rừng nào có hươu?/Bản nào có hổ?/Gật đầu lia lịa”!

Điều hài hước là hướng tới đâu đầu con vật ấy cũng đều “gật đầu lia lịa” nhưng làm gì có lắm hươu, lắm hổ như thế. Người xưa lấy cảnh tượng đó để phê phán hạng người không có lập trường, không dám nói lên chính kiến của mình để phân biệt phải trái mà chỉ biết gật đầu xu nịnh.

Để khuyên người đời luôn hướng tới việc thiện, tránh việc ác, sống có nhân nghĩa với đồng loại và cống hiến hết trí lực của mình, tránh để hoài phí thời gian, các cụ xưa có câu khuyên rằng: “Cuối oóc lừa la thôi bâu buốt!/Slế khần slà tam coóc slụ slăng!”. Dịch nghĩa: “Chuối ra buồng còn đâu ra lá!/Đời người có sống mãi được đâu”!

Trong vốn cổ dân tộc, ngoài mảng truyện bằng thơ Nôm, dân ca, tục ngữ, đồng dao... còn có các làn điệu dân ca ở từng vùng, từng dân tộc. Riêng dân tộc Tày ở Cao Bằng có rất nhiều làn điệu như: then tính (của ông giàng, bà then), các điệu lượn (lượn then, lượn slương, lượn nàng ới, lượn cọi), phong slư (phảng lài), phuối slọi - phuối slơ, các làn điệu diễn xướng trong lễ cưới, trong tang lễ... Các làn điệu ấy tuy nay không còn phổ cập như các thế hệ trước (nhất là hát lượn) nhưng vài năm trở lại đây đã được khơi dậy từ phong trào văn nghệ quần chúng và chuyên nghiệp, từ chương trình văn nghệ của Đài Phát thanh và Truyền hình, từ những bài thơ bằng tiếng dân tộc và chuyên mục “Tìm trong vốn cổ” của Báo Cao Bằng, nhất là tại các hội thi, hội diễn hát dân ca và giao duyên, thu hút các nghệ nhân và những người trong lớp trẻ có năng khiếu tham gia. Đó là những tín hiệu đáng mừng, là niềm hy vọng để góp phần bảo tồn di sản văn hóa. Nhưng công tác bảo tồn không thể chỉ dừng ở những cách làm trên đây mà nhiều cách làm khác cũng phải được tiến hành đồng thời.

Trong kho tàng văn hóa dân gian vô tận này không một nghệ nhân nào dám nói là mình biết hết, không một nhà nghiên cứu nào dám nói là mình đã sưu tầm đủ. Thực tế trong xã hội không ít người chưa từng có danh tiếng, họ không phải nghệ nhân nhưng lại có những yếu tố mà người nghệ nhân không có. Cho nên có thể nói những thứ mà chúng ta đã thu hái được chỉ dừng ở sự khiêm tốn là “bước đầu”, là “một số” chứ chưa phải là đã đủ hết.

Bảo tồn và phát huy là hai mặt song hành. Mặt bảo tồn có cố gắng nhưng mặt phát huy chưa nhiều. Hơn nữa cần có ý thức rằng bảo tồn không đồng nghĩa với lưu trữ, những vốn đã có, thu thập được cần đem ra phổ biến để lưu truyền. Đó là cách bảo tồn theo truyền thống mà người xưa làm từ đời này sang đời khác để lưu truyền rộng rãi trong xã hội.

Ngày trước, khi còn trong nôi thì nghe hát ru, lúc bé có đồng giao, tuổi chưa thành niên được học lượn hát, bước vào tuổi dậy thì người nào cũng có ít vốn liếng để đi trẩy hội, giao lưu hát lượn khắp nơi. Những nét văn hóa đó ngày nay không còn, nên chúng ta phải tính đến việc truyền bá bằng mọi cách để lưu truyền các vốn cổ này. Trong các hội thi, hội diễn và “Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” hằng năm nên bố trí thời lượng và khuyến khích các tiết mục nguyên bản, nguyên gốc để lưu giữ những giá trị văn hóa cổ. Đối với các trường học cũng nên chính thức dành một số tiết học hợp lý để giảng dạy vốn văn nghệ dân gian cho học sinh các cấp để từ đó mà phổ cập nhân rộng ra.

Dân là gốc, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng là sự nghiệp của quần chúng. Bên cạnh nguồn ngân sách của Nhà nước cần có sự tham gia của toàn dân với chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa, tuy nhiên cách làm cũng còn tùy thuộc vào từng địa phương với nhiều vấn đề cần phải bàn và thống nhất.

Hoàng Đức Hiền

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/gia-tri-von-co-trong-cuoc-song-hom-nay-3177532.html