Giá vàng còn chịu nhiều tác động từ tỷ giá, lãi suất và lạm phát
Mặc dù liên tục trồi – sụt, nhưng giá vàng trên thị trường quốc tế vẫn ở mức trên 3.000 USD/ounce kể từ hôm 18/3/2025, kéo theo sự bất định của giá vàng trong nước.
Trên thị trường thế giới, tính đến chiều ngày 25/3/2025, giá vàng giao ngay trên sàn Kitco hiện giao dịch quanh mức 3.012 USD/ounce, giảm 20 USD/ounce so với mức cao nhất trong phiên giao dịch ngày 24/3/2025.
So với đỉnh thiết lập vào ngày 20/3/2025, giá vàng thế giới cũng đã giảm khoảng 45 USD/ounce.
Giá vàng thế giới đã liên tục tăng mạnh và vượt ngưỡng 3.000 USD/ounce vào phiên giao dịch 17/3/2025. So với mức giá tại phiên giao dịch mở đầu năm 2025, giá vàng hiện đã tăng tới gần 15% - mức sinh lời đáng kể so với nhiều phương thức đầu tư khác.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân chính khiến giá vàng thế giới chững lại là đà tăng giá của đồng USD, sựphục hồi của chứng khoán Mỹ cũng như lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng trở lại.
Chỉ số USD Index đo lường sức mạnh của đồng USD so với một số đồng tiền chủ chốt đang ở mức hơn 104,4 điểm – mức cao nhất trong 3 tuần qua.
Tuy nhiên, những xung đột thương mại, địa chính trị thế giới kéo dài vẫn hỗ trợ giá vàng đứng ở mức cao. Một số dự báo cho rằng giá vàng quốc tế có thể giao dịch quanh 3.000 USD/ounce một thời gian dài và tiếp tục tăng cao vào cuối năm.

Giá vàng trong nước chịu ảnh hưởng của giá vàng thế giới. Ảnh: H.Dịu
Trước ảnh hưởng của diễn biến giá vàng quốc tế, giá vàng trong nước cũng khó ổn định. Hiện giá vàng SJC đang được niêm yết ở mức 95,6 – 97,6 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), trong khi giá vàng nhẫn lại được niêm yết ở mức cao hơn, hiện ở quanh mức 95,6 – 98,2 6 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra).
Mức giá trên cũng đã giảm cả triệu đồng mỗi lượng so với mức đỉnh 99,8 triệu đồng/lượng chiều bán ra và 98 triệu đồng/lượng chiều mua vào lập được vào ngày 20/3/2025 của vàng SJC.
Phân tích về những yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng trong nước, PGS.TS. Trần Việt Dũng và nhóm nghiên cứu vĩ mô Viện Nghiên cứu khoa học ngân hàng (Học viện Ngân hàng) nhận định, dù tác động của hoạt động đầu cơ vàng đã được hạn chế đáng kể nhờ các chính sách kiểm soát thị trường vàng, nhưng giá vàng quốc tế vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới giá vàng trong nước do hoạt động nhập khẩu.
Hơn nữa, đồng USD có tác động đáng kể đến giá vàng trong nước thông qua tác động đến giá vàng quốc tế và chi phí nhập khẩu vàng.
Tuy nhiên, chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục đóng vai trò then chốt trong việc kiểm soát biến động tỷ giá, qua đó kiểm soát giá vàng.
Cũng theo nhóm chuyên gia này, chính sách tiền tệ và quản lý thị trường vàng sẽ ảnh hưởng đến khả năng đầu tư vàng trong nước. Lãi suất thấp có thể khuyến khích người dân chuyển dịch dòng vốn từ tiết kiệm sang các tài sản như vàng và bất động sản. Nhưng với sự phục hồi của nền kinh tế và nhu cầu tăng vốn vay, mặt bằng lãi suất tăng lên sẽ góp phần kéo dòng vốn đầu cơ ra khỏi thị trường vàng.
Đồng thời, các chính sách quản lý thị trường vàng của Chính phủ, như siết chặt nhập khẩu vàng, kiểm soát chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế… sẽ giúp giảm tình trạng đầu cơ và ổn định thị trường vàng trong nước.
Theo Hội đồng Vàng thế giới, Việt Nam thường xuyên nằm trong nhóm các quốc gia tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới, đặc biệt ở khu vực Đông Nam Á (Việt Nam chỉ đứng sau Thái Lan về nhu cầu tiêu thụ vàng).
Vì thế, PGS.TS. Trần Việt Dũng và nhóm nghiên cứu vĩ mô Viện Nghiên cứu khoa học ngân hàng cho rằng, nhu cầu cầu vàng trong nước vẫn là yếu tố quan trọng tác động đến giá vàng, nhất là khi vàng vẫn tiếp tục là kênh đầu tư an toàn và được người dân ưa thích trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động.
Bên cạnh đó, hiện các chỉ số lạm phát và chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam cũng ở mức khá cao trong 2 tháng đầu năm. Đặc biệt, việc Chính phủ điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 lên trên 8% cũng có thể “phải hy sinh một phần lạm phát”.
Theo các chuyên gia, vàng được coi là công cụ phòng ngừa rủi ro lạm phát, nên giá vàng có thể tăng cao khi lạm phát gia tăng.
Điều này đòi hỏi chính sách điều hành kinh tế vĩ mô hài hòa, linh hoạt, kết hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa có trọng tâm, trọng điểm để giữ vững ổn định, đảm bảo tăng trưởng như các mục tiêu đã đề ra.