Giấc mơ triệu đô và bài toán bền vững ở thủ phủ chanh dây Gia Lai
Sau hơn 1 thập kỷ phát triển với nhiều cung bậc thăng trầm, ngành hàng chanh dây tại Gia Lai - vùng trồng lớn nhất cả nước đang bước vào giai đoạn điều chỉnh mang tính bản lề, hướng tới mục tiêu sản xuất bền vững, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng.
Từng được xem là loại cây "làm giàu nhanh”, chanh dây hiện nay buộc phải quay về giá trị cốt lõi: chất lượng, thị trường và liên kết chuỗi.
Khi dư âm của những cơn sốt vẫn còn để lại nhiều hệ lụy, bài toán đặt ra cho “thủ phủ” chanh dây không còn là mở rộng diện tích, mà là làm sao để người trồng có thể sống được và sống lâu dài với cây trồng này.

Cây chanh dây được trồng thử nghiệm ở Gia Lai từ năm 2012. Ảnh: N.S
Chu kỳ tăng - giảm
Trong cơ cấu ngành rau quả Việt Nam, chanh dây đang dần khẳng định vị thế là một trong những cây trồng có tốc độ tăng trưởng nhanh, có tiềm năng xuất khẩu lớn.
Với lợi thế khí hậu mát mẻ, biên độ nhiệt ngày và đêm cao, khu vực Tây Nguyên đã trở thành “thủ phủ” chanh dây của cả nước, chiếm hơn 88% tổng diện tích canh tác.
Trong đó, Gia Lai giữ vai trò trung tâm, không chỉ là vùng trồng lớn nhất mà còn là mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị từ cây giống, sản xuất nguyên liệu đến chế biến và xuất khẩu.
Theo thống kê, diện tích chanh dây của cả nước hiện có hơn 12.600 ha, sản lượng đạt gần 180.000 tấn, đưa Việt Nam vào nhóm 10 quốc gia cung cấp chanh dây lớn trên thế giới.
Riêng Gia Lai có khoảng 5.650 ha, tăng gần 19 lần so với năm 2015; năng suất bình quân 40-45 tấn/ha, cao gần gấp đôi mức bình quân chung. Đây được xem là một trong những vùng trồng chanh dây có năng suất cao nhất khu vực châu Á.
Chanh dây được đưa vào trồng thử nghiệm tại Gia Lai từ khoảng năm 2012, ban đầu chỉ ở quy mô nhỏ, rải rác ở một số địa phương. Giai đoạn 2016-2017, khi thị trường mở rộng và giá tăng cao, diện tích chanh dây tăng nhanh.
Tuy nhiên, quá trình phát triển nóng vội đã sớm bộc lộ những rủi ro cố hữu. Năm 2018, khi cung vượt cầu, giá giảm sâu, nhiều hộ nông dân rơi vào cảnh thua lỗ, buộc phải thu hẹp diện tích hoặc chuyển đổi cây trồng.

Ông Lê Quý (làng Mui, xã Bàu Cạn) trồng xen chanh dây trong vườn cà phê nhằm phân tán rủi ro. Ảnh: N.S
Đến năm 2023, chanh dây một lần nữa bước vào “cơn sốt” mới: giá tăng, các nhà máy chế biến đi vào hoạt động. Lúc bấy giờ, chanh dây được ca ngợi là “cây triệu đô” cho thu nhập vượt trội, thậm chí có thời điểm “vượt mặt” cả cà phê, hồ tiêu - những cây trồng chủ lực lâu năm của Tây Nguyên.
Người dân mở rộng diện tích ồ ạt, trong khi ngành nông nghiệp địa phương từng đặt mục tiêu nâng diện tích chanh dây lên hơn 25.000 ha vào năm 2025.
Thế nhưng, chỉ sau vài tháng ngắn ngủi, thị trường chanh dây bất ngờ đảo chiều. Giá từ mức 17.000 đồng/kg rơi xuống chỉ còn 3.000-5.000 đồng/kg, khiến nhiều hộ không kịp trở tay.
Ông Lê Quý (làng Mui, xã Bàu Cạn) cho biết: “Lúc giá cao, ai cũng nghĩ trồng chanh dây là có tiền nhanh. Nhưng khi giá rớt mạnh, nhiều nhà lỗ nặng, buộc phải chặt bỏ vườn cây để quay lại trồng cà phê, hồ tiêu”.
Sau gần 2 năm biến động, ngành hàng chanh dây tại Gia Lai đang dần lấy lại nhịp ổn định. Giá bán hiện dao động khoảng 19.000-20.000 đồng/kg; chanh dây xuất khẩu loại 1 sang châu Âu đạt khoảng 52.000 đồng/kg.
Quan trọng hơn, tâm lý sản xuất của người dân đã thay đổi rõ rệt: thận trọng hơn, không còn chạy theo phong trào, chuyển sang trồng xen trong vườn cà phê, hồ tiêu nhằm phân tán rủi ro.
Rủi ro vẫn... hiện hữu
Dù thị trường có tín hiệu phục hồi, song người trồng chanh dây tại Gia Lai vẫn đang đối mặt với nhiều rủi ro. Ghi nhận tại các vùng trồng cho thấy, không ít vườn chanh dây sinh trưởng xanh tốt nhưng không ra hoa, không đậu quả hoặc đậu rất ít, khiến năng suất chưa đạt như kỳ vọng ban đầu.

Bệnh đốm nâu trên cây chanh dây. Ảnh: N.S
Nguyên nhân được xác định là do thời tiết diễn biến ngày càng bất thường, mưa kéo dài, độ ẩm cao, gió mạnh và các đợt lạnh trái mùa đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình ra hoa, thụ phấn và đậu quả của chanh dây. Tuy nhiên, điều khiến người trồng lo lắng hơn cả vẫn là chất lượng giống.
Ông Nguyễn Văn Tài (thôn 1, xã Ia Phí) cho hay: “Gia đình tôi trồng 2 giống chanh dây đều có thương hiệu, chăm sóc đúng kỹ thuật nhưng một loại gần như không có trái, giống còn lại thì rất ít. Làm nông mà không biết lỗi do đâu thì rất lo lắng”.
Cùng với hiện tượng không đậu quả, dịch bệnh đang trở thành mối đe dọa lớn đối với “thủ phủ” chanh dây. Nếu những năm trước, các bệnh như phấn trắng, mắt cua, bã trầu từng gây thiệt hại, thì hiện nay bệnh đốm nâu được xem là nguy hiểm nhất. Bệnh này lây lan nhanh, tấn công đồng thời lá và quả, khiến cây suy kiệt, rụng trái sớm, nhiều vườn gần như mất trắng.
Bà Hoàng Thị Hiên (thôn Chư Hậu 5, xã Ia Hrung) rầu rĩ nói: “Bệnh đốm nâu khiến vườn chanh dây gần 2 ha đang cho trái của tôi bị chết rất nhiều. Gia đình phun thuốc liên tục nhưng bệnh vẫn không giảm, năng suất chắc chắn mất hơn một nửa”.

Bà Hoàng Thị Hiên (thôn Chư Hậu 5, xã Ia Hrung) bên vườn chanh dây bị bệnh đốm nâu tàn phá. Ảnh: N.S
Theo ông Nguyễn Thế Minh - Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Nghĩa Hòa (xã Chư Pah), bên cạnh yếu tố thời tiết, chất lượng giống không đảm bảo là nguyên nhân cốt lõi khiến dịch bệnh bùng phát mạnh.
“Bệnh đốm nâu xuất hiện ngay từ giai đoạn đầu do giống không sạch bệnh. Nếu không siết chặt quản lý giống, nguy cơ dịch bệnh tiếp tục lan rộng là rất lớn” - ông Minh cảnh báo.

Ông Nguyễn Thế Minh (bên trái) - Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Nghĩa Hòa (xã Chư Păh) trao đổi với các hộ dân về việc chăm sóc vườn chanh dây. Ảnh: N.S
Thực tế cho thấy, khâu giống và kỹ thuật đang là “vùng tối” trong sản xuất chanh dây, khiến người trồng dễ rơi vào vòng xoáy rủi ro, ngay cả khi thị trường có tín hiệu tích cực.
Hướng đi bền vững
Trước những rủi ro hiện hữu, nhiều mô hình liên kết chuỗi đang cho thấy hiệu quả tích cực, trở thành hướng đi bền vững của ngành hàng chanh dây. Tiêu biểu là mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ của Công ty cổ phần Tập đoàn Nafoods tại Gia Lai.
Nafoods đầu tư bài bản từ khâu sản xuất cây giống công nghệ cao, kiểm định chất lượng trước khi đưa ra thị trường, đến chuyển giao kỹ thuật, kiểm soát vùng trồng và bao tiêu sản phẩm.
Hiện doanh nghiệp đang liên kết với khoảng 50 HTX, với hơn 5.000 hộ nông dân, phát triển vùng nguyên liệu trên 5.000 ha và đặt mục tiêu mở rộng lên hơn 10.000 ha vào năm 2030 tại các tỉnh Tây Nguyên.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng - Tổng Giám đốc Nafoods Group - nhìn nhận: “Muốn xuất khẩu bền vững thì phải kiểm soát từ cây giống, vùng trồng đến dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Doanh nghiệp cũng phải đồng hành cùng nông dân, chia sẻ rủi ro và cam kết đầu ra ổn định”.
Theo ngành Nông nghiệp Gia Lai, để phát triển bền vững ngành hàng chanh dây cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Trọng tâm là quy hoạch vùng trồng theo nhu cầu thị trường, siết chặt quản lý chất lượng giống, chuẩn hóa quy trình canh tác, đẩy mạnh liên kết chuỗi và ưu tiên chế biến sâu nhằm nâng cao giá trị gia tăng.
Ông Trần Xuân Khải - Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh - thông tin: “Quan điểm của tỉnh là không chạy theo phong trào. Thay vì mở rộng diện tích, Gia Lai sẽ tổ chức lại sản xuất theo kế hoạch, kiểm soát giống và liên kết chặt với doanh nghiệp để ổn định đầu ra”.

Chanh dây vẫn còn rất nhiều dư địa phát triển ở Gia Lai. Ảnh: N.S
Ngành nông nghiệp Gia Lai cũng định hướng hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư cơ sở sơ chế, bảo quản, chế biến sâu tại vùng trồng tập trung; đồng thời, đẩy mạnh xây dựng mã số vùng trồng, đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường xuất khẩu.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm suy giảm nguồn cung tại Nam Mỹ - khu vực sản xuất chanh dây lớn nhất thế giới, chanh dây Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng vẫn còn dư địa mở rộng thị phần.
Tuy nhiên, chỉ khi thoát khỏi tư duy phong trào, kiên trì con đường liên kết chuỗi và lấy chất lượng làm nền tảng, “thủ phủ” chanh dây mới có thể đứng vững lâu dài và phát triển bền vững.












