Giải bài toán nhân lực: Biến nghịch lý thành động lực phát triển

Khi nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với những mục tiêu đầy tham vọng, bài toán phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành điểm mấu chốt quyết định năng lực cạnh tranh của cả doanh nghiệp và quốc gia.

Nghịch lý “vừa thừa, vừa thiếu” nhân lực

Tại các vòng đối thoại của Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025 thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp đều chung nhận định khu vực kinh tế tư nhân đối mặt với nhiều điểm nghẽn mang tính hệ thống, kìm hãm năng lực đổi mới sáng tạo. Những điểm nghẽn này trải dài từ nhân lực, thể chế, tài chính cho tới hạ tầng và hệ sinh thái hỗ trợ, trong đó thiếu hụt nhân lực chất lượng cao là một trong những điểm nghẽn lớn nhất.

Theo bà Trương Lý Hoàng Phi - CEO IBP/InnoEx, các doanh nghiệp địa phương gặp rất nhiều khó khăn trong tuyển dụng khi sinh viên tốt nghiệp chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến thứ hạng thấp của Việt Nam ở trụ cột “Nguồn nhân lực & Nghiên cứu” (73/133) trong GII 2024.

Lực lượng lao động có chuyên môn, chất lượng cao sẽ tận dụng cơ hội tăng trưởng trong kỷ nguyên mới. Ảnh: ĐỨC THANH

Lực lượng lao động có chuyên môn, chất lượng cao sẽ tận dụng cơ hội tăng trưởng trong kỷ nguyên mới. Ảnh: ĐỨC THANH

Nhìn rộng hơn về vấn đề này, PGS.TS Nguyễn Thị Lan Hương - nguyên Viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội cho rằng, bài toán lớn nhất đặt ra cho Việt Nam hiện nay là chất lượng nguồn nhân lực chưa theo kịp đòi hỏi của công nghệ mới. Đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực ở các 5 nhóm “đầu kéo”: công chức - viên chức; khoa học - công nghệ; giáo viên, doanh nhân và thợ kỹ thuật.

Mặc dù nhiều chủ trương và đường lối của Đảng về phát triển nhân lực chất lượng cao đã được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật, tuy nhiên, việc triển khai trong thực tế còn nhiều vướng mắc. Hơn nữa, đến nay, khái niệm này vẫn chưa được định nghĩa đầy đủ, thiếu các chỉ tiêu thống kê cụ thể để đo lường. Chính vì vậy, thị trường lao động hiện tồn tại nghịch lý vừa thừa lao động phổ thông, vừa thiếu lao động kỹ thuật, nhân lực số, chuyên gia công nghệ.

Số liệu cho thấy đến năm 2025, 70% lực lượng lao động Việt Nam vẫn chưa qua đào tạo, trong khi các ngành công nghệ thông tin, cơ khí, điện tử… thiếu hụt hàng trăm nghìn kỹ sư, chuyên gia. 70% sinh viên ngành công nghệ thông tin không đủ trình độ làm việc ngay sau khi ra trường. Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên ở mức 8,19% - cao gấp 3,6 lần so với tỷ lệ thất nghiệp chung.

Ưu tiên, đầu tư mạnh mẽ cho nguồn nhân lực chất lượng cao

Thực tế trên chỉ ra, nếu không tạo được bước đột phá mạnh mẽ về nhân lực, Việt Nam khó tận dụng trọn vẹn những cơ hội tăng trưởng trong kỷ nguyên mới. Muốn vậy, theo bà Nguyễn Thị Lan Hương, phải có quyết tâm chính trị mạnh mẽ, chiến lược rõ ràng và môi trường pháp lý thuận lợi để nuôi dưỡng lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao.

Từ phía cộng đồng doanh nghiệp, không chỉ dừng ở phản ánh, kiến nghị, các doanh nghiệp đang bắt tay triển khai nhiều sáng kiến nhằm khắc phục tình trạng này. Ông Đặng Hồng Anh - Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam, cho biết: “Chúng tôi cam kết tiên phong triển khai Chương trình Quốc gia đào tạo 10.000 CEO, đồng thời khởi xướng chương trình "Mỗi doanh nhân trẻ dìu dắt 2 doanh nhân mới’ để góp phần chuyển đổi 5 triệu hộ kinh doanh cá thể thành doanh nghiệp".

Bên cạnh đó, nhiều sáng kiến khác cũng được đề xuất. Đơn cử chương trình phổ cập kỹ năng số quốc gia (Nhà nước hỗ trợ 50 - 70% chi phí học tập về AI, dữ liệu, tự động hóa; doanh nghiệp chi trả phần còn lại và cam kết tuyển dụng); xây dựng khung chuẩn chứng chỉ số quốc gia liên thông ASEAN; đào tạo 1.000 CEO/CIO am hiểu quản trị đổi mới sáng tạo.

Các sáng kiến này không chỉ nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt nhân lực đơn thuần, mà còn kiến tạo một hệ sinh thái học tập và nghiên cứu bền vững, gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, bà Trương Lý Hoàng Phi khẳng định.

Về phía Nhà nước, PGS.TS Nguyễn Thị Lan Hương cho rằng cần tạo đột phá về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu tiếp cận tổng thể hơn. Trong đó, cần có sự thống nhất cao về quan điểm ưu tiên, đầu tư mạnh mẽ cho nguồn nhân lực chất lượng cao với các cơ chế đặc thù, giải pháp cụ thể, kịp thời, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước.

Để đạt được mục tiêu trên, trước hết, Chính phủ cần sớm ban hành Chiến lược Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2030, tầm nhìn 2050; bố trí đầy đủ nguồn lực bảo đảm để thống nhất về thực hiện nhằm tối ưu hóa nguồn lực con người để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời đại mới.

Trong đó, những định hướng then chốt là phải hình thành môi trường trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức, thượng tôn pháp luật, có văn hóa để dẫn dắt sự phát triển nguồn nhân lực. Các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động cần phù hợp với sự phát triển của thị trường, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.

Đồng thời, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ trong nhận thức và hành động về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo cho tất cả các nhóm nhân lực trong 5 khối đầu tàu.

Một mặt, tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ công chức gắn với sắp xếp bộ máy, cải cách tiền lương tương xứng. Mặt khác, phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành.. Đặc biệt, cần chú trọng đào tạo đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu mới.

Đối với khu vực doanh nghiệp, mục tiêu là xây dựng đội ngũ chủ doanh nghiệp, lãnh đạo các tổ chức, công ty, lao động có kỹ thuật trong các doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị.

Đối với nhóm lao động kỹ thuật trong các doanh nghiệp: chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động, kết hợp chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức; hình thành đội ngũ lao động lành nghề, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng.

Khi doanh nghiệp và Nhà nước cùng chung tay, khi đào tạo gắn chặt với nhu cầu thị trường, khi nhân tài được trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng, Việt Nam hoàn toàn có thể biến “thách thức” thành “động lực”, khai mở trọn vẹn những tiềm năng trong kỷ nguyên mới.

Giao một cơ quan chủ trì chịu trách nhiệm, giám sát

Tại báo cáo của Đoàn giám sát chuyên đề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”, Đoàn Giám sát kiến nghị Chính phủ khẩn trương ban hành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030, tầm nhìn 2050 và bố trí đầy đủ nguồn lực bảo đảm để thực hiện, nâng cao năng lực sáng tạo của nhân lực gắn với sử dụng hợp lý trí tuệ nhân tạo và các công cụ khoa học, công nghệ mới.

Đoàn Giám sát cũng kiến nghị Chính phủ ban hành quy định về nhân lực chất lượng cao theo hướng quy định rõ về khái niệm, tiêu chí, thẩm quyền xác định nhân lực chất luợng cao trong tổng thể nguồn nhân lực (qua các tiêu chí về kết quả đào tạo, bồi dưỡng, kết quả thực hành nghề nghiệp, kinh nghiệm, uy tín, thành tựu trong công tác)...

Trong tổ chức thực hiện, Đoàn kiến nghị Chính phủ giao một cơ quan chủ trì quản lý nhà nước về lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực ở cả khu vực công và ngoài công lập, chịu trách nhiệm theo dõi, dự báo, xây dựng chiến lược về phát triển nguồn nhân lực quốc gia và giám sát, đánh giá kết quả thực hiện; chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu về nhân lực, lựa chọn lĩnh vực trọng điểm để xây dựng chính sách phát triển nhân lực chất lượng cao.

Đồng thời, thực hiện đồng bộ các giải pháp để giảm quy mô lao động khu vực phi chính thức. Chính phủ nghiên cứu chính sách ưu tiên, hỗ trợ hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi, ứng dụng công nghệ cao, tạo việc làm bền vững.

Hoàng Yến

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/giai-bai-toan-nhan-luc-bien-nghich-ly-thanh-dong-luc-phat-trien-183643-183643.html