Giải 'bài toán' về phụ nữ và trẻ em vùng dân tộc thiểu số Trung Trung Bộ: Cần giải pháp đồng bộ và bền bỉ
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh - Đại học Khoa học Huế - người chủ trì đề tài nghiên cứu cấp Bộ và là chuyên gia có nhiều năm điền dã, khảo sát thực tế về các vấn đề xã hội tại cộng đồng dân tộc thiểu số vùng Trung Trung Bộ. Ông đã chia sẻ về thực trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết, hôn nhân mua bán, bất bình đẳng giới và những hệ lụy đang đè nặng lên phụ nữ và trẻ em nơi đây, đồng thời đưa ra những đề xuất giải pháp thiết thực, bền vững.

Giáo dục có tác động lớn đến phát triển nguồn lực đồng bào DTTS
PV: Thưa PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh, ông có thể mô tả thực trạng những vấn đề xã hội đang đặt ra đối với phụ nữ và trẻ em vùng dân tộc thiểu số Trung Trung Bộ hiện nay?
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh: Có thể nói, phụ nữ và trẻ em nơi đây đang phải đối diện với rất nhiều vấn đề bức thiết, trong đó nổi cộm là nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, hôn nhân mua bán, bất bình đẳng giới và sự hạn chế nhận thức về giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên.
Về tảo hôn, thực trạng này đã diễn ra từ nhiều đời trong các tộc người Chứt, Tà Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều ở Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Ở nhiều nơi, các em gái mới 14-16 tuổi đã bị ép lấy chồng, có nơi tình trạng này chiếm tới hơn 20% số cặp kết hôn.
Ví dụ, tại huyện Đakrông (Quảng Trị), riêng năm 2017 đã có 59 trường hợp tảo hôn trên tổng số 255 cặp kết hôn, chiếm 23%. Đặc biệt, số liệu 9 tháng đầu năm 2018 tiếp tục tăng với 63 cặp. Tại huyện Hướng Hóa, cùng giai đoạn có tới 227 trường hợp tảo hôn, trong đó nữ chiếm hơn 70%.
Tiếp đó là hôn nhân cận huyết thống, một vấn nạn gây hệ lụy di truyền nghiêm trọng. Ở người Rục (Quảng Bình), cộng đồng nhỏ, sống biệt lập khiến nhiều cặp đôi trong bản có quan hệ họ hàng gần vẫn kết hôn với nhau.

PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh
Tình trạng này tạo ra nhiều trường hợp bạch tạng, thiểu năng trí tuệ, bệnh tan máu bẩm sinh... Tại Quảng Trị, năm 2017 có 25 trường hợp kết hôn cận huyết thống, chiếm gần 10% tổng số cặp kết hôn.
Ngoài ra, hôn nhân mua bán dưới hình thức thách cưới nặng nề vẫn tồn tại phổ biến. Ở người Chứt, nhà trai phải nộp lợn, gà, bát, rựa, nồi và hàng thúng bánh, cơm. Người Bru - Vân Kiều thách cưới bằng trâu, bò, rượu, vòng bạc…
Người nghèo không cưới được vợ, người giàu cưới nhiều vợ, tạo bất bình đẳng xã hội. Cùng với đó, bất bình đẳng giới ăn sâu thành tiềm thức: đàn ông giữ quyền quyết định mọi việc, phụ nữ vừa phải lao động, vừa nội trợ, lại không được tham gia công việc làng bản, không có tiếng nói trong gia đình và xã hội.
PV: Theo ông, đâu là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này và vì sao nhiều năm nay chưa thể khắc phục triệt để?
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh: Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là trình độ dân trí còn thấp, nhận thức xã hội hạn chế. Chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số chưa cao, tỉ lệ thất học còn nhiều, dẫn đến sự tiếp thu chậm về các quy định pháp luật, kiến thức về hôn nhân, sức khỏe sinh sản, giới tính.
Nguyên nhân thứ hai là công tác tuyên truyền pháp luật tại địa phương chưa hiệu quả. Các bản làng dân tộc thiểu số ở rừng sâu, núi cao, đi lại khó khăn. Đội ngũ cán bộ thôn bản nhiều nơi thiếu chuyên môn, không đủ trình độ nghiệp vụ, chỉ làm tròn nhiệm vụ hành chính, ít quan tâm vận động cộng đồng.
Thứ ba, cuộc sống người dân còn đói nghèo, điều kiện sản xuất và tiếp cận dịch vụ xã hội hạn chế. Khi đời sống chưa được cải thiện thì việc duy trì tập quán cũ là điều dễ hiểu. Thứ tư, chính quyền cơ sở thiếu quyết liệt, nhiều cán bộ địa phương chưa tích cực kiểm tra, xử lý, có nơi còn nể nang phong tục, sợ mất lòng già làng, trưởng bản, dẫn đến buông lỏng quản lý.
PV: Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, ông có thể chia sẻ những giải pháp khả thi để giảm thiểu các vấn đề này trong thời gian tới?
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh: Theo tôi, cần đồng bộ nhiều giải pháp cùng lúc:
Thứ nhất, nâng cao vai trò của già làng, Hội đồng già làng trong quản lý luật tục, nhất là trong vấn đề hôn nhân, gia đình. Đây là những người có tiếng nói, được cộng đồng kính trọng, nên họ có thể tác động hiệu quả đến nhận thức và hành vi của người dân.

Đồng bào DTTS vùng Trung Trung bộ là khu vực miền núi ở độ cao trung bình trên 600m so với mực nước biển, sản xuất nông lâm nghiệp là chủ yếu
Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thôn bản, đặc biệt là cán bộ dân số, phụ nữ, thanh niên. Phải giúp họ nắm vững Luật Hôn nhân và Gia đình, kỹ năng truyền thông, vận động và xử lý tình huống để hướng dẫn cộng đồng.
Thứ ba, xây dựng phong trào thanh niên bài trừ hủ tục, tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao kết hợp tuyên truyền pháp luật và giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên. Phải biến công tác tuyên truyền thành phong trào xã hội hóa.
Thứ tư, lồng ghép Luật Hôn nhân và Gia đình vào quy ước thôn bản. Khi các quy định pháp luật trở thành luật tục mới được cộng đồng chấp thuận, việc thực thi sẽ dễ dàng hơn. Cùng với đó, cần tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm, kịp thời ngăn chặn tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
PV: Theo ông, đâu là yếu tố quyết định để những giải pháp này thực sự hiệu quả và bền vững?
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh: Điều quan trọng nhất là phải kiên trì, bền bỉ và đồng bộ. Không thể mong một sớm một chiều thay đổi nhận thức vốn được định hình hàng trăm năm trong cộng đồng dân tộc thiểu số. Các hoạt động tuyên truyền, vận động phải thực hiện thường xuyên, liên tục, có sự tham gia của già làng, người uy tín, phụ nữ tiêu biểu.
Ngoài ra, nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện kinh tế hộ gia đình, tạo việc làm ổn định cũng là điều kiện tiên quyết để người dân giảm phụ thuộc vào tập quán cũ. Khi đời sống tốt lên, nhu cầu tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, pháp luật mới có thể nâng cao.
Cuối cùng, cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, từ chính quyền các cấp, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể, trong đó Hội Phụ nữ phải giữ vai trò nòng cốt trong vận động phụ nữ, trẻ em gái, các gia đình thực hiện nếp sống mới.
Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông!
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh đã có tham luận "Những vấn đề đặt ra đối với phụ nữ và trẻ em vùng dân tộc thiểu số ở Trung Trung Bộ, Việt Nam hiện nay" đăng trên Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Khu vực miền Trung – Tây Nguyên; Nhà xuất bản văn hóa dân tộc năm 2024.