Giải pháp để kích cầu tiêu dùng thiết bị y tế trong nước

Hiện, thị phần thiết bị y tế (TBYT) sản xuất trong nước chiếm một phần rất nhỏ vì nhiều lý do. Cũng bởi vậy, 'bài toán' kích cầu tiêu dùng TBYT trong nước luôn được các doanh nghiệp (DN) và nhà đầu tư quan tâm. Đây cũng là nội dung cuộc trao đổi giữa phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam với bà Cao Thị Vân Điểm - Phó Chủ tịch Hội TBYT Việt Nam.

Bà Cao Thị Vân Điểm - Phó Chủ tịch Hội TBYT Việt Nam.

Bà Cao Thị Vân Điểm - Phó Chủ tịch Hội TBYT Việt Nam.

TBYT là một lĩnh vực quan trọng, được rất nhiều người quan tâm. Bà có thể cho biết bức tranh tổng thể của hoạt động sản xuất, kinh doanh TBYT ở Việt Nam hiện nay?

- Hiện, chúng ta có 10.000 chủng loại TBYT, trong đó có tới 90% là TBYT nhập khẩu, sản xuất trong nước chỉ có khoảng 10%, chủ yếu là vật tư tiêu hao (VTTH). VTTH chiếm giá trị rất lớn trong thanh toán bảo hiểm y tế (BHYT). Theo thống kê, đối với thủy tinh thể, 1 năm chúng ta thanh toán tới hơn 1.000 tỷ BHYT; Stent tim mạch cũng vậy. Nếu hai sản phẩm này được sản xuất trong nước, giá thành sẽ giảm rất nhiều, thanh toán BHYT cũng giảm đi và Quỹ BHYT sẽ tăng lên.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có nhiều nhà máy sản xuất các TBYT này, công nghệ cũng chưa đáp ứng cho hoạt động sản xuất và nhu cầu chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Hiện, chúng ta mới chủ yếu sản xuất các VTTH và thiết bị đơn giản như: Bông băng, cồn gạc, quần áo dùng một lần... Nếu chúng ta chủ động sản xuất được các TBYT trong nước thì giá thành sẽ hạ hơn, có lợi cho người dân, bởi về chất lượng, các TBYT của ta không thua kém gì nước ngoài. Chúng tôi đã đi nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ và thấy rằng các hãng của Mỹ, những người sản xuất ra các sản phẩm tốt, đòi hỏi kỹ thuật cao đều là người Việt Nam. Vậy tại sao mình ở Việt Nam, nhân công của mình rẻ hơn, lại không sản xuất được?

Ở đây tồn tại hai vấn đề: Quản lý chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng nguồn nhân lực. Trước thực trạng này, Hội TBYT Việt Nam đã kiến nghị, đề xuất: Thứ nhất, đào tạo nguồn nhân lực cho sản xuất; Hai là, quản lý chất lượng sản xuất và thứ ba là tăng cường kiểm tra, kiểm định, sao cho kiểm soát được chất lượng đó là tương đương quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống kiểm nghiệm của chúng ta vẫn chưa có nên các bệnh viện vẫn chưa tin dùng. Thêm vào đó, tiêu chuẩn chất lượng của ta vẫn hạn chế, hiện chúng ta mới có trên 300 tiêu chuẩn, rồi cũng chưa có các tiêu chuẩn để có thể bắt buộc các sản phẩm hay gặp rủi ro phải hợp chuẩn, hợp quy. Đó là những lý do chính khiến các sản phẩm sản xuất trong nước “yếu” hơn, chưa thể cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài.

Về kỹ thuật, Việt Nam hoàn toàn có thể chuyển giao công nghệ sớm. Về mặt nhân lực, giá thành của mình đều có thể cạnh tranh với DN nước ngoài. Làm sao để dân tin, dân dùng thì phải có bên thứ ba đứng ra hậu kiểm trong nhà máy, chứ giờ tự công bố không ổn. DN không thể tự nói sản phẩm của tôi tốt, đạt chất lượng, mà phải có đơn vị trung gian đứng ra kiểm nghiệm, chứng minh điều đó. VD: Bên ngành Dược, có cả hệ thống kiểm nghiệm thuốc, thử nghiệm lâm sàng, lĩnh vực TBYT cũng phải làm được điều đó. Khi nào anh đạt tiêu chuẩn quốc tế, chắc chắn các bệnh viện sẽ tin dùng.

Về công tác đấu thầu, hiện nay Luật Đấu thầu mới rất ủng hộ các sản phẩm sản xuất trong nước, thể hiện ở việc tính điểm, ưu đãi, đặc biệt ưu đãi đối với các sản phẩm đạt chất lượng cao, có yếu tố sáng tạo, đầu tư công nghệ mới. Tuy nhiên, Luật thì thế nhưng thực hiện ra sao, rồi chế tài xử phạt thế nào khi người ta không thực hiện thì lại không có. VD: Sản phẩm sản xuất trong nước được đấu thầu nhưng họ không xét ưu đãi cũng không ai bắt buộc, đơn vị tiêu dùng nói “tôi thích hàng ngoại cơ”, cũng không ép được họ phải sử dụng hàng Việt Nam. Do đó, phải có chế tài cụ thể quy định sản phẩm đó sản xuất trong nước thì phải ưu đãi, ưu tiên, trừ khi người ta không đáp ứng về chất lượng. Nếu không ưu tiên sử dụng sản phẩm trong nước sản xuất thì phải chịu chế tài xử phạt như thế nào? Và cũng nên quy định, đến khi sử dụng hết các sản phẩm sản xuất trong nước thì mới được mời chào các hãng nước ngoài vào. Có như thế thì mới thúc đẩy được sự phát triển của thị trường TBYT trong nước.

Vậy theo bà, đâu là nguyên nhân sâu xa khiến TBYT trong nước chưa thể cạnh tranh được với sản phẩm ngoại?

- Tôi cho rằng, có hai vấn đề chính mà chúng ta phải quan tâm: Đó là giá và chất lượng. Về chất lượng, chúng ta chưa có bên thứ ba để đánh giá chất lượng này là tương đương với sản phẩm nước ngoài. Về giá, các sản phẩm của châu Âu, hay Mỹ thường rất cao, nhưng những hãng giá thấp hơn mà chất lượng tương đương nhau thì họ có quyền thắng, không có lý do gì để cạnh tranh, như Ấn Độ, Trung Quốc. Thực tế, hàng của họ chưa chắc đã hơn Việt Nam về chất lượng, nhưng giá sản phẩm thấp nên họ đương nhiên thắng. Sở dĩ sản phẩm của họ có giá thấp vì ở Việt Nam trong lĩnh vực thuế khi xây dựng giá không thể cao hơn nữa. Vì cao hơn thì không trúng thầu mà thấp hơn thì không có lãi, không có lãi thì DN sẽ không sản xuất.

Về giá, chúng ta bị thua thiệt về thuế nên thua thiệt về giá. Mặc dù chúng ta được hưởng ưu đãi về thuế nhưng thực tế lại không được hưởng. Và mặc dù chúng ta đã xây dựng được mức giá kiểm soát, chứng từ đầy đủ nhưng chúng ta cũng không biết rõ các mặt hàng nhập khẩu ở nước ngoài về như thế nào, cơ chế ra sao. Khi nhập vào, họ được tính lợi nhuận khi bán ra, mà mình thì không biết được cụ thể nên rất khó. Và như vậy, giá là hạn chế rất lớn của chúng ta khi tham gia đấu thầu.

Vấn đề nữa là, trong tư tưởng của bác sĩ cũng như người dân vẫn tồn tại suy nghĩ hàng ngoại tốt hơn hàng nội. Đây chính là rào cản cho việc sử dụng sản phẩm Việt Nam. Nhưng tôi tin, nếu như có bên thứ ba đứng ra kiểm định, bảo đảm về chất lượng, sản phẩm của ta sẽ có chỗ đứng trong nước, bởi những trao đổi giữa người Việt với nhau sẽ thuận lợi hơn rất nhiều so với các hãng TBYT nước ngoài. Bên cạnh đó, chúng ta cũng dễ dàng lấy hàng, đổi hàng... còn với các đối tác nước ngoài cần phải lấy hàng, nhập hàng, rồi khoảng cách về địa lý sẽ khó bảo đảm về tiến độ.

Nếu Việt Nam chủ động sản xuất được các TBYT thì giá thành sẽ hạ hơn, từ đó có lợi cho người dân hơn. (Ảnh minh họa).

Nếu Việt Nam chủ động sản xuất được các TBYT thì giá thành sẽ hạ hơn, từ đó có lợi cho người dân hơn. (Ảnh minh họa).

Trước những khó khăn đó, theo bà, xu hướng sản xuất, kinh doanh của các DN trong nước sẽ như thế nào?

- Với nhu cầu sử dụng TBYT ngày càng cao do dân số ngày càng già hóa, xu hướng bệnh tật phức tạp hơn, người dân quan tâm đến sức khỏe nhiều hơn, họ cũng chấp nhận chi cho chăm sóc sức khỏe nên nhu cầu sử dụng TBYT rất cao. Ngoài nhu cầu sử dụng trong bệnh viện, nhu cầu sử dụng TBYT tại gia đình cũng phát triển. Nếu như mình tự sản xuất được sẽ chủ động trong cung ứng, cũng như giảm giá thành trong quá trình đi khám, chữa bệnh của người dân. Và không chỉ người dân được hưởng lợi, DN tăng cường sản xuất sẽ đóng góp, làm giàu cho đất nước.

Thực tế, nếu được hưởng các chính sách ưu đãi, sẽ có rất nhiều DN đầu tư vào lĩnh vực này. Cụ thể, các DN công nghệ cao cần được Nhà nước hỗ trợ về công nghệ, quá trình nghiên cứu. Bởi, dù có ý tưởng nghiên cứu tốt, các nhà nghiên cứu vẫn cần pháp lý rõ ràng để đưa các sản phẩm vào sản xuất. Thực tế, các khâu lưu hành, kiểm định vẫn còn rất nhiều hạn chế, vướng mắc về thời gian, tiến độ. Mà khi thời gian kéo dài sẽ làm mất đi hiệu quả, tính khoa học, tính mới. Vì lẽ đó, chúng tôi mong muốn Nhà nước hỗ trợ về mặt khoa học. Trong quá trình nghiên cứu, các chính sách hỗ trợ, thời gian cần rút ngắn để làm sao đẩy nhanh hơn tiến trình sản xuất sản phẩm, đến gần thực tế hơn, kịp thời phục vụ người dân.

Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với vấn nạn hàng giả, hàng nhái. Trong lĩnh vực TBYT, các sản phẩm bị làm nhái, làm giả như thế nào, thưa bà? Với vai trò của mình, Hội TBYT Việt Nam đã có những động thái gì để góp phần làm giảm các sản phẩm bị làm giả, làm nhái?

- Theo tôi đánh giá, những TBYT được Nhà nước hỗ trợ về mặt khoa học, công nghệ, được đánh giá là sản phẩm công nghệ cao, được sản xuất trong các khu công nghệ cao là bảo đảm chất lượng, vì đã được Nhà nước xem xét, hỗ trợ, đánh giá thì mới được đưa vào sản xuất. Về hàng giả, tình trạng các TBYT hạng A, B kém chất lượng lưu hành trên thị trường là do cơ chế DN tự công bố, cộng với lòng tham của một số DN. Còn với các sản phẩm mức C, D Nhà nước kiểm nghiệm, quản lý rất chặt nên khó có thể làm giả, sản xuất kém chất lượng.

Còn muốn đẩy nhanh sản xuất các sản phẩm trong nước, chúng ta cần tiếp quản các công nghệ mới, khuyến khích các công nghệ mới du nhập vào Việt Nam, có các hội đồng khoa học - công nghệ kiểm định, đánh giá và cho tiếp nhận thì sẽ đẩy nhanh hơn quá trình sản xuất trong nước, cũng như nâng cao hơn chất lượng các sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt trên thị trường.

Trân trọng cảm ơn bà!

Để góp phần bảo vệ các DN chân chính trước vấn nạn hàng giả, hàng nhái, Hội TBYT Việt Nam luôn hỗ trợ DN trong việc đưa các sản phẩm ra thị trường, cụ thể là trong các hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm; Hỗ trợ DN trong công tác nghiên cứu thị trường; Đề xuất nghiên cứu và giúp đỡ họ thực hiện các nghiên cứu đó. Nhiều chuyên gia trong Hội cũng đề xuất, xét duyệt các đề tài nghiên cứu, xây dựng các quy chuẩn, hỗ trợ đẩy mạnh công tác nghiên cứu, sản xuất trong nước...

Đoan Trang (thực hiện)

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/giai-phap-de-kich-cau-tieu-dung-thiet-bi-y-te-trong-nuoc-post551074.html