Giải pháp để vận hành các hồ chứa hiệu quả
Nhiều quốc gia như Brazil, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc đã giải quyết bài toán xả lũ bằng các cơ chế kinh tế, công nghệ dự báo thời gian thực và kỷ luật hành chính rõ ràng.
Những kinh nghiệm trên đây đặt ra yêu cầu cấp bách cho Việt Nam: Phải đổi mới tư duy quản trị nguồn nước, minh bạch trách nhiệm và coi an toàn đập là ưu tiên tuyệt đối.
Trước những đòi hỏi từ thực tiễn ThS Nguyễn Phước Thắng, chuyên gia chuyển đổi số và phát triển bền vững, giảng viên Trường ĐH Hòa Bình, đã có những phân tích rất thấu đáo.
Tách bạch giữa dòng nước lũ và dòng tiền
ThS Thắng phân tích: Giả định phòng điều khiển của một nhà máy thủy điện với không khí căng như dây đàn. Mực nước trong hồ đang nhích dần lên từng centimet. Bên ngoài, mưa vẫn xối xả và trên bàn điều khiển là văn bản chỉ đạo của Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai: “Vận hành xả lũ với lưu lượng 0-5.000 m³/giây”.
Đây chính là lúc tư duy “đánh đu” xuất hiện. Với chủ đầu tư, nước trong hồ là tiền. Mỗi mét khối nước xả qua đập tràn thay vì chạy qua tuabin là một khoản doanh thu bị dòng nước cuốn trôi vĩnh viễn. Nếu xả sớm để đón lũ theo kịch bản an toàn nhất nhưng sau đó mưa dừng và lũ không về, nhà máy sẽ đối mặt với rủi ro kép: Mất nước để phát điện cho mùa khô năm sau và tuabin bị mài mòn nhanh chóng do phải vận hành ở cột nước thấp.
GS-TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam, từng gọi tên chính xác hiện tượng này là “vận hành lấp lửng”. Nhưng nếu chỉ trách cứ đạo đức kinh doanh của chủ hồ thì chưa đủ. Chúng ta đang thiếu những cơ chế để chủ hồ xả nước sớm mà không sợ lỗ và những chế tài đủ mạnh để họ phải sợ việc giữ nước trái phép hơn là sợ mất doanh thu.
Theo ThS Thắng, các cường quốc thủy điện như Brazil, Nga, Mỹ hay Trung Quốc cũng từng đối mặt với mâu thuẫn này. Cách họ giải quyết vấn đề không dừng lại ở những văn bản hành chính, mà đi sâu vào cốt lõi của bài toán kinh tế và công nghệ.
Cụ thể: Brazil, quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc tới 65% vào thủy điện, có lẽ là nơi Việt Nam cần “soi mình” kỹ nhất. Tại xứ sở Samba, họ hiểu một chân lý đơn giản: Không thể bắt doanh nghiệp hy sinh lợi nhuận chỉ bằng mệnh lệnh hành chính. Để giải quyết bài toán “giữ nước hay xả nước”, Brazil đã vận hành một hệ thống chia sẻ rủi ro tài chính mang tên MRE - cơ chế tái phân bổ năng lượng theo tiếng Brazil.

ThS Nguyễn Phước Thắng, chuyên gia chuyển đổi số và phát triển bền vững, giảng viên Trường ĐH Hòa Bình. Ảnh: NV
MRE như một “hợp tác xã” khổng lồ của tất cả nhà máy thủy điện. Thay vì mỗi nhà máy tự lo cho túi tiền của mình dựa trên lượng điện thực tế phát ra, họ cùng nộp sản lượng vào một “bể chứa năng lượng chung”. Doanh thu của mỗi nhà máy được tính dựa trên tỉ lệ sở hữu vật lý được đảm bảo trong bể chứa năng lượng chung đó, chứ không phụ thuộc vào việc tuabin của họ có đang quay hay không.
Điều này tạo ra một sự thay đổi hành vi ngoạn mục. Cơ quan điều độ điện quốc gia của Brazil dự báo có lũ lớn và ra lệnh cho nhà máy A phải xả nước qua tràn để hạ thấp mực nước hồ, đón lũ (tức là không phát điện, lãng phí nước). Chủ nhà máy A vui vẻ tuân thủ ngay lập tức. Tại sao? Vì doanh thu của họ đã được MRE bảo đảm. Dù họ xả nước đi, họ vẫn được chia tiền từ doanh thu của những nhà máy khác trong hệ thống đang được hưởng lợi từ việc giữ nước.
Thậm chí, luật của Brazil còn đi xa hơn khi quy định rõ việc bồi thường cho các nhà máy bị “cưỡng bức” ngừng phát điện vì lý do an ninh nguồn nước hoặc giới hạn truyền tải. Hình thức bồi thường có thể là gia hạn thời gian hợp đồng nhượng quyền, để đảm bảo rằng nhà đầu tư không bao giờ bị thiệt thòi khi thực hiện nghĩa vụ công ích.
Giải pháp ở đây là: Muốn thoát khỏi tư duy “lấp lửng”, cần tách bạch giữa dòng nước lũ và dòng tiền. Chúng ta cần thí điểm cơ chế “bù trừ năng lượng” hoặc một quỹ bảo hiểm thủy văn cho các lưu vực sông lớn. Khi lợi ích kinh tế được bảo đảm, mệnh lệnh xả lũ sẽ được thực thi không chút do dự.

Các thủy điện trên lưu vực sông Ba đang vận hành xả lũ trong tháng 11-2025. Ảnh: LÊ KIẾN - TẤN LỘC
“Cây gậy” quyền lực và kỷ luật hành chính
Một giải pháp quản trị khác theo ThS Thắng đó chính là giải pháp “cây gậy”, của sự tập trung quyền lực và kỷ luật hành chính.
Xác định rõ nguyên nhân và trách nhiệm các bên liên quan trong đợt mưa lũ gây hậu quả nặng nề
Văn phòng Chính phủ vừa phát đi Thông báo 646 ngày 27-11 về kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp ứng phó với bão số 15 và tiếp tục khắc phục hậu quả mưa lũ tại các tỉnh miền Trung.
Một trong những chỉ đạo đáng chú ý, để đảm bảo ứng phó một cách chủ động, hiệu quả với thiên tai trong thời gian tới, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ NN&MT chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, nhà khoa học thành lập các đoàn công tác đánh giá toàn diện, kỹ lưỡng, khoa học nguyên nhân thiên tai vừa qua, xác định rõ nguyên nhân khách quan (mưa đặc biệt lớn gây lũ lịch sử), nguyên nhân chủ quan nếu có (trong công tác chỉ đạo, tổ chức ứng phó, phòng tránh thiên tai; trong vận hành hồ chứa; do tác động của công trình xây dựng…).
Từ đó xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan, kiên quyết xử lý nghiêm theo thẩm quyền và quy định của pháp luật đối với các vi phạm (nếu có). Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật để khắc phục, giảm thiểu rủi ro thiên tai.
Tại Nga, việc quản lý các chuỗi hồ chứa khổng lồ trên sông Volga hay Kama không bao giờ là chuyện riêng của các chủ đập. Cục Tài nguyên nước liên bang (Rosvodresursy) đóng vai trò là một “nhạc trưởng” đầy quyền uy. Điểm đặc biệt trong cách quản lý của Nga là sự “cụ thể hóa tuyệt đối”.
Khác với các lệnh “xả 0-5.000 m³/giây” đầy “lấp lửng”, các chỉ thị của Rosvodresursy đưa ra con số chính xác đến mức khắc nghiệt. Ví dụ, lệnh vận hành hồ chứa Kuibyshev không phải là một khoảng, mà là “duy trì lưu lượng xả trung bình ngày 5.500 ± 200 m³/giây”. Biên độ sai số ± 200 m³/giây là cực nhỏ đối với một con sông lớn. Điều này tước bỏ hoàn toàn quyền “tự ý sáng tạo” hay “đánh võng” của chủ hồ.
Họ không có không gian để “lấp lửng”. Họ chỉ có một nhiệm vụ duy nhất: Tuân thủ con số đó. Nếu dự báo sai, trách nhiệm thuộc về cơ quan nhà nước (ủy ban liên ngành) chứ không đẩy rủi ro phán đoán về phía doanh nghiệp.
Tương tự, tại Trung Quốc, Ủy ban Tài nguyên nước sông Trường Giang (CWRC) nắm quyền sinh sát trong mùa lũ. Quy định của họ về đập Tam Hiệp là một ví dụ điển hình về sự ưu tiên tuyệt đối cho an toàn. Trong mùa lũ, mực nước hồ Tam Hiệp bị buộc phải hạ xuống “mức nước giới hạn phòng lũ” là 145 m - thấp hơn tới 30 m so với mức dâng bình thường. Bất kỳ hành vi tích nước nào vượt quá mức 145 m trong mùa lũ mà không có lệnh của CWRC đều bị coi là tội phạm, không có ngoại lệ cho lý do “tối ưu hóa phát điện”.
Việt Nam cần học đó là sự dứt khoát trong mệnh lệnh. Chúng ta cần trao thực quyền cho các cơ quan chức năng. Mệnh lệnh đưa ra phải là con số cụ thể. Sự linh hoạt là cần thiết nhưng sự linh hoạt đó phải nằm trong tay cơ quan điều phối nhà nước, không phải trong tay chủ hồ luôn đặt lợi nhuận lên trước.
Quy tắc 30 phút và 30 cm của người Nhật
Một trong những nỗi ám ảnh lớn nhất của người dân vùng hạ du Việt Nam là nước lên không kịp trở tay. ThS Thắng cho rằng Nhật Bản, quốc gia thường xuyên đối mặt với thiên tai, đã giải quyết vấn đề này bằng quy tắc “tốc độ tăng” (rate of rise). Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng, Giao thông và Du lịch Nhật Bản (MLIT) áp dụng quy định nghiêm ngặt: Việc xả nước từ đập không được phép làm mực nước hạ du tăng quá 30 cm trong vòng 30 phút.
Quy tắc này buộc các chủ đập phải có tư duy dự báo từ rất sớm. Họ không thể chờ nước đầy mới xả, vì khi đó để cứu đập họ sẽ phải xả cấp tập, vi phạm quy tắc 30 cm. Họ buộc phải xả đón đầu ngay khi có dự báo mưa, chấp nhận xả sớm để dòng nước ở hạ du dâng lên từ từ, cho người dân đủ thời gian sơ tán.
Để làm được điều này, Nhật Bản không dựa vào kinh nghiệm dân gian. Họ sở hữu hệ thống công nghệ giám sát sông ngòi tiên tiến nhất thế giới. Hệ thống S-uiPS sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) có khả năng dự báo ngập lụt chi tiết đến từng con phố, từng ngã tư trong 30 phút tới theo thời gian thực. Hệ thống cảnh báo của Nhật Bản cũng không chỉ dừng lại ở tin nhắn SMS văn bản khô khan. Dọc các con sông là hệ thống còi hú (sirens), bảng điện tử và xe phát thanh cảnh báo. Người dân không cần phải đoán già đoán non nước đang ở đâu. Họ sẽ nhìn thấy nó trên bản đồ số.

Các thủy điện trên lưu vực sông Ba đang vận hành xả lũ trong tháng 11-2025. Ảnh: LÊ KIẾN - TẤN LỘC
Việt Nam, với hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin đang phát triển mạnh, hoàn toàn đủ sức xây dựng một “bản sao số” (digital twin) cho các lưu vực sông trọng điểm.
Hãy hình dung một ứng dụng trên smartphone nơi người dân rốn lũ có thể thấy: Nước xả từ đập A đang chảy với tốc độ bao nhiêu và chính xác 2 tiếng nữa nó sẽ ngập đến bậc tam cấp thứ mấy của nhà mình.
“Đó không phải là viễn tưởng, đó là tiêu chuẩn an toàn mà người dân xứng đáng được hưởng” - ThS Thắng cho hay.
Chốt chặn cuối cùng: Luật pháp nghiêm minh
ThS Thắng phân tích thêm cuối cùng khi mọi cơ chế kinh tế và công nghệ thất bại, pháp luật phải là chốt chặn cuối cùng.
Ông lấy ví dụ: Ấn Độ, một quốc gia đang phát triển với nhiều nét tương đồng Việt Nam, đã có bước đi táo bạo vào năm 2021 với Đạo luật An toàn đập (dam safety act). Đạo luật này đã hình sự hóa sự tắc trách. Điều 41 của luật này quy định: Bất kỳ ai cản trở hoặc từ chối tuân thủ chỉ thị an toàn đập, nếu dẫn đến thiệt hại nhân mạng, có thể bị phạt tù tới hai năm. Đây là một thông điệp đanh thép: Vận hành hồ chứa sai quy trình không chỉ là vi phạm hợp đồng, đó là tội ác.
Hơn thế nữa, xu hướng pháp lý quốc tế đang chuyển dịch sang nguyên tắc “trách nhiệm nghiêm ngặt” (strict liability). Vụ kiện lịch sử liên quan đến thảm họa vỡ đập Mariana (Brazil) tại Tòa án Tối cao London (Anh) vừa qua đã thiết lập một tiền lệ quan trọng. Tòa án phán quyết công ty mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường bất kể họ có lỗi cố ý hay không. Chỉ cần đập của anh gây thiệt hại, anh phải bồi thường. Điều này triệt tiêu khả năng đổ lỗi cho ông trời.
“Chúng ta có lẽ cũng cần một luật an toàn đập riêng biệt hoặc sửa đổi Luật Tài nguyên nước theo hướng này. Cần coi hồ chứa thủy điện là nguồn nguy hiểm cao độ thực sự. Khi đó, chủ đầu tư sẽ buộc phải mua bảo hiểm trách nhiệm và chính các công ty bảo hiểm sẽ trở thành thanh tra viên giám sát quy trình vận hành của họ chặt chẽ hơn bất kỳ cơ quan nhà nước nào” - ThS Thắng nhận định.
Phải cho nhà khoa học, người dân cùng giám sát thủy điện
Cũng dưới một góc nhìn khoa học, GS-TS Nguyễn Thế Hùng, nguyên Phó Chủ tịch Hội Cơ học thủy khí Việt Nam, cho hay đa số thủy điện ở miền Trung có dung tích điều tiết lũ không nhiều.
“Điều tiết lũ là khi đỉnh lũ về, lưu lượng lũ về lớn nhất chứa vào trong hồ, cho xả ra từ từ, làm cho lưu lượng chảy về hạ lưu nhỏ hơn lưu lượng lũ đến hồ thì gọi là điều tiết” - ông Hùng lý giải.
Theo ông Hùng, muốn đảm bảo giảm lũ lụt, làm cho mực nước lũ ở hạ lưu thấp xuống thì khi có dự báo mưa lớn, thủy điện phải xả bớt nước trong hồ, để tăng “dung tích rỗng” của hồ đi và khi đỉnh lũ về thì chứa được trong đó.
Khi lưu lượng nước về hồ nhỏ thì không cần phải chứa, mà xả từ từ xuống hạ lưu. Như vậy sẽ góp phần cắt bớt đỉnh lũ, làm cho mực nước hạ lưu thấp, không lớn như là khi không có hồ chứa, người dân sẽ chủ động hơn.

GS-TS Nguyễn Thế Hùng, nguyên Phó Chủ tịch Hội Cơ học thủy khí Việt Nam. Ảnh: NV
“Ví dụ, nếu không có hồ chứa thì nước sẽ ngập lên nhà 1 m. Nhưng có hồ chứa chủ động cắt giảm lũ thì mức ngập sẽ thấp hơn, thời gian ngập lũ kéo dài ra. Người dân chỉ sợ nước lên cao làm sập nhà, chết người chớ không sợ thời gian ngập kéo dài” - ông Hùng nói.
Tuy nhiên, theo ông Hùng, các thủy điện thường không dám làm như trên vì một số nguyên nhân. Cụ thể: Thứ nhất, họ chưa biết dự báo mưa có đúng hay không. Sợ rằng dự báo mưa nhiều, thủy điện hạ mực nước hồ xuống để đón lũ nhưng lỡ nước về không đầy đủ như dự báo thì hồ không có nước. Từ sau thời điểm lũ không còn trận mưa nào lớn nữa, nước không đầy hồ thì không có nước phát điện sẽ hụt thu. Thứ hai, các thủy điện có thể chờ “nước tới chân mới nhảy”, cứ giữ ở mực nước cao nhất, tức là mực nước dâng bình thường, khi lũ lớn về sợ vỡ đập mới xả. Khi đó tất cả đều xả, mưa hạ lưu cũng lớn, mưa ở lưu vực lân cận không có hồ chứa cũng lớn thì sẽ chồng lũ. Lũ dâng cao và dâng nhanh hơn, người dân hạ lưu không kịp ứng phó.
Từ những phân tích trên, ông Hùng cho rằng muốn biết thủy điện có vận hành điều tiết đúng quy trình, quy định hay không phải có camera đặt ngay cửa xả lũ, quan sát theo thời gian thực. Phải có đại diện của chính quyền và người dân cùng giám sát.
“Nếu làm kiên quyết, chỉ đạo nhất quán từ trên xuống dưới thì sẽ biết trước được kịch bản nào sẽ xảy ra với hồ nào” - ông Hùng cho biết.
Ông Hùng nhấn mạnh rằng phải có đại diện của chính quyền và nhân dân giám sát tại chỗ theo thời gian thực. Có thiết bị đo đạc mực nước ở vài nhánh chính trên thượng nguồn mới biết được lưu lượng về hồ, khi đó mới biết thủy điện nào làm đúng, làm sai.
Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng phải mở rộng cánh cửa để các nhà khoa học góp ý, cùng giám sát và phải biết lắng nghe các nhà khoa học.
Ba khuyến nghị cần thay đổi
Những quy trình vận hành hồ chứa được viết từ mấy năm về trước (như Quyết định 1865) đang không theo kịp với biến đổi nhanh chóng của thời tiết, khí hậu. Việc quy định cứng nhắc mùa lũ kết thúc vào ngày 15-12, trong khi thực tế bão vẫn ập đến vào tháng 1-2026, là minh chứng rõ nhất cho thấy chính sách đang chậm chân hơn thiên tai.
Để chấm dứt tình trạng vận hành “đánh đu” này, có lẽ chúng ta cần một cuộc cách mạng tư duy quản trị nguồn nước, dựa trên kiềng ba chân:
• Thứ nhất: Sử dụng công cụ tài chính (như cơ chế MRE của Brazil) để doanh nghiệp không phải đắn đo giữa cứu dân và kiếm tiền.
• Thứ hai: Chuyển từ cảnh báo thụ động sang dự báo thời gian thực và kiểm soát “tốc độ tăng” lũ như Nhật Bản.
• Thứ ba: Hình sự hóa các vi phạm và áp dụng trách nhiệm nghiêm ngặt như Ấn Độ, hay tập trung quyền lực và kỷ luật hành chính như ở Nga và Trung Quốc.
ThS NGUYỄN PHƯỚC THẮNG
Cần thay đổi quy trình vận hành liên hồ, phải hạ mức đón lũ
Về quy trình liên hồ chứa, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở NN&MT TP Huế, cho rằng quy trình điều tiết liên hồ chứa mà TP Huế đang áp dụng đã kéo dài hơn năm năm và hiện đã phát sinh nhiều bất cập, cần phải thay đổi để phù hợp với thực tế.
Cụ thể, theo ông Đức, quy trình hiện nay mực nước các hồ chứa sẽ được hạ xuống để sẵn sàng đón lũ. Nhưng hiện tại, mực nước tại các hồ theo quy trình vẫn đang còn khá cao vì vậy cần tiếp tục hạ mực nước này. Ví dụ: Tại hồ thủy điện Hương Đình, Bình Điền cần xem xét hạ mực nước hồ xuống thêm khoảng 1-1,5 m nữa để tăng dung tích phòng lũ.
Trong tình hình diễn biến lũ lụt phức tạp, việc điều hành không nên bị cứng nhắc theo quy trình hiện hành mà cần có sự linh hoạt, giao quyền cho người chỉ huy. Trưởng Ban Phòng thủ dân sự cần được trao thẩm quyền ra quyết định điều tiết theo tình hình thực tế, không nhất thiết phải tuân theo quy trình trong mọi trường hợp.
Ví dụ, khi mực nước lũ trên sông và hạ du còn ở mức báo động 3 nhưng dự báo lưu lượng mưa sắp tới vẫn còn cao, cần tiếp tục điều tiết xả lũ. Thậm chí, cần quyết định xả với lưu lượng đi về lớn hơn lưu lượng đến để chủ động phòng thủ, tạo khoảng trống cho các đợt mưa lũ tiếp theo.
Đồng thời, công tác vận hành hồ chứa sẽ nhịp nhàng và hiệu quả hơn nếu có bản tin dự báo chính xác. Hiện nay, lệnh vận hành hồ chứa chỉ được đưa ra khi có bản tin của khí tượng thủy văn.
Tuy nhiên, bản tin dự báo thường chỉ được đưa ra trước hai ngày so với thời điểm xảy ra mưa lũ. Khoảng thời gian này quá ngắn khiến việc điều hành bị động và không kịp thời. Bản tin dự báo và cảnh báo cần được phát hành sớm hơn, ít nhất là 3-4 ngày để có đủ thời gian chuẩn bị và vận hành điều tiết.
TP Huế thời gian qua đã linh hoạt với bản tin dự báo 10 ngày của Đài Khí tượng thủy văn Trung Trung Bộ. Địa phương có thể căn cứ vào bản tin 10 ngày này để tính toán và chủ động điều tiết trước cả tuần, thay vì bị động chờ bản tin hai ngày như hiện tại. Việc áp dụng linh hoạt nguồn thông tin này giúp TP Huế làm tốt hơn công tác phòng, chống thiên tai.
Nguồn PLO: https://plo.vn/giai-phap-de-van-hanh-cac-ho-chua-hieu-qua-post883803.html













