Giải pháp nào để ngăn ngừa tình trạng bài báo khoa học bị rút?

Theo Web of Science (WoS, Mỹ), một trong ba cơ sở dữ liệu khoa học uy tín nhất có thể giúp truy xuất thống kê các bài báo khoa học bị rút, tính đến thời điểm này, toàn thế giới đã có 65.637 bài báo chuẩn WoS đã bị rút. Điều đáng nói là dù số lượng bài báo bị rút có xu hướng giảm trong những năm gần đây, từ 13.178 bài báo bị rút năm 2022 xuống còn 6.212 bài bị rút trong năm 2024 cho thấy công tác đảm bảo liêm chính nghiên cứu trên toàn thế giới đang triển khai quyết liệt. Tuy nhiên, đã có 228 bài báo khoa học chuẩn WoS của Việt Nam bị rút tính đến thời điểm này, dẫn đầu danh sách các quốc gia Đông Nam Á. Điều này có thể là tín hiệu đáng báo động và thách thức công tác đảm bảo liêm chính nghiên cứu trong cả nước, đòi hỏi cần sớm có giải pháp để ngăn chặn.

Bài báo bị rút có thể trở thành “vết đen” trong hồ sơ nghiên cứu

Theo số liệu do GS Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Trung tâm Công nghệ Y tế, Đại học Công nghệ Sydney (UTS) thống kê dựa trên các cơ sở dữ liệu khoa học uy tín thế giới hiện nay, Việt Nam đang vào top đầu về số bài báo bị rút trong khu vực Đông Nam Á. Chỉ tính từ năm 2011 đến cuối 2025, Việt Nam có hàng trăm bài báo bị gỡ bỏ chính thức hoặc kèm theo cảnh báo.

Việc gia tăng số lượng bài báo khoa học bị rút đặt ra những thách thức về liêm chính trong nghiên cứu. (Ảnh minh họa)

Việc gia tăng số lượng bài báo khoa học bị rút đặt ra những thách thức về liêm chính trong nghiên cứu. (Ảnh minh họa)

Nhưng điều đáng lo ngại hơn cả không phải là con số tuyệt đối mà là số lượng các bài báo bị rút đang có xu hướng gia tăng và chưa dừng lại. Hệ lụy của việc nhiều bài báo bị rút là gây mất uy tín đối với cộng đồng khoa học quốc tế; các nhà khoa học chân chính bị “vạ lây” khi xin tài trợ và hợp tác quốc tế; sinh viên, nghiên cứu sinh bị ảnh hưởng khi trích dẫn các bài đã bị thu hồi; nguy cơ bị các tập san lớn đưa vào “danh sách đen” hoặc yêu cầu kiểm tra bài từ Việt Nam.

GS Nguyễn Văn Tuấn cho rằng, trong khoa học, việc bài báo khoa học bị rút sẽ bị đánh dấu vĩnh viễn trên các cơ sở dữ liệu khoa học (Web of Science, Scopus, PubMed và Retraction Watch). Nó không còn giá trị khoa học, không được trích dẫn hợp lệ và trở thành “vết đen” trong hồ sơ nghiên cứu của tất cả các tác giả liên quan. Các lý do có thể dẫn đến việc bài báo khoa học bị rút gồm: Áp lực chỉ tiêu công bố quốc tế quá lớn; cơ chế khen thưởng bằng tiền và học hàm học vị dựa trên số lượng bài Scopus/WoS; thiếu đào tạo nghiêm túc về đạo đức nghiên cứu và đạo đức công bố ở bậc sau đại học; hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ tại nhiều trường viện còn rất yếu.

TS Lê Văn Út, Trợ lý Chủ tịch Hội đồng trường về Nghiên cứu khoa học, Trưởng nhóm Nghiên cứu đo lường khoa học và Chính sách quản trị nghiên cứu, Trường Đại học Văn Lang cũng nhấn mạnh việc có bài báo khoa học bị rút có thể dẫn đến nhiều hệ lụy ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân nhà khoa học, cơ sở giáo dục mà nhà khoa học đang làm việc và uy tín của đất nước.

Theo COPE (Committee on Publication Ethics, Ủy ban đạo đức xuất bản, trụ sở ở Vương Quốc Anh), có ít nhất 8 nguyên nhân có thể dẫn đến một bài báo khoa học bị rút sau khi được công bố trên một tạp chí khoa học, bao gồm: Các kết quả nghiên cứu không đáng tin cậy vì có những sai sót nghiêm trọng, các hành vi ngụy tạo hoặc làm sai lệch trong bài báo; đạo văn; công bố lặp lại nhưng không ghi nhận các nguồn trước đó một cách chuẩn mực; sử dụng trái phép các tài liệu hoặc dữ liệu nghiên cứu; vi phạm bản quyền hoặc các vấn đề pháp lý khác; vi phạm đạo đức trong nghiên cứu khoa học như việc các đề tài nghiên cứu liên quan động vật, con người hoặc các vấn đề nhạy cảm khác nhưng chưa được phê duyệt về khía cạnh đạo đức nghiên cứu; thao túng quy trình bình duyệt; mâu thuẫn lợi ích trong công bố khoa học.

Tuy vậy, cũng theo TS Lê Văn Út, thực tiễn cho thấy, nguyên nhân rút bài báo có thể gồm cả chủ quan do các vi phạm của tác giả và khách quan từ những vi phạm của tạp chí. Do đó, không nên đánh đồng tất cả các trường hợp bài báo bị rút là vi phạm đạo đức hay liêm chính khoa học và cũng không nên xem bài báo bị rút là “tiền án” dính với người làm khoa học suốt đời.

Tăng cường tính liêm chính khoa học

Chia sẻ thêm với PV Báo CAND về các giải pháp ngăn ngừa tình trạng bài báo khoa học bị rút tại Việt Nam có xu hướng gia tăng, TS Lê Văn Út cho rằng, trước hết, các nhà khoa học cần tuân thủ liêm chính nghiên cứu, cụ thể là không gian lận, không bịa đặt và không đạo văn trong nghiên cứu và công bố khoa học; hết sức cân nhắc khi quyết định đứng tên vào một bài báo khoa học vì những mục đích khác nhau, nhất là mục đích không trong sáng, nếu không nắm rõ nội dung và tình hình nhóm tác giả tham gia trong bài báo bởi mỗi bài báo khoa học được công khai trên toàn thế giới, lưu trữ trọn đời trong các cơ sở dữ liệu khoa học, có thể được/bị hàng tỷ người đọc xem xét và phán xét.

Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng cần cân nhắc khi hợp tác với các tác giả có dấu hiệu đột biến trong nghiên cứu, công bố khoa học. Đó có thể là đột biến số lượng sản phẩm khoa học, có những hợp tác nghiên cứu đáng ngờ, tham gia chương trình tài trợ nghiên cứu đáng ngờ và nhất là chương trình liên quốc gia, có nhiều bài báo bị rút và các dấu hiệu vi phạm liêm chính nghiên cứu khoa học khác. Đặc biệt, cũng cần thận trọng khi chọn tạp chí khoa học để công bố bài báo; phải tránh xa các tạp chí giả tạo, săn mồi, kém chất lượng; cảnh giác trước những tạp chí có các chỉ số trắc lượng khoa học cao nhưng có thể tiềm ẩn rủi ro đột biến.

Ngoài ra, một giải pháp quan trọng có ý nghĩa lâu dài là phải xây dựng môi trường nghiên cứu sao cho có thể hạn chế tối đa vi phạm liêm chính nghiên cứu. Khi đó, cần bố trí hợp lý giữa mục tiêu đặt ra và nguồn lực phục vụ nghiên cứu khoa học. Việc áp KPI hay bắt ép người làm nghiên cứu phải tạo ra những sản phẩm “đỉnh cao hay hạng cao” nhưng với nguồn lực khiêm tốn/hạn chế có thể là một trong những nguyên nhân cốt yếu dẫn đến vi phạm liêm chính nghiên cứu.

Với góc độ là người có nhiều năm nghiên cứu và hợp tác với các nhà khoa học Việt Nam, GS Nguyễn Văn Tuấn cũng đề xuất một số giải pháp như công khai các qui chế về nghiên cứu khoa học, qui định về đạo đức khoa học và đạo đức công bố, có thể tham khảo các qui chế và qui định ở Mĩ và Úc theo hướng phù hợp với Việt Nam. Trong đó, bắt buộc tất cả nghiên cứu sinh tiến sĩ và thạc sĩ phải hoàn thành khóa học chính quy về đạo đức nghiên cứu & đạo đức công bố trước khi bắt tay vào nghiên cứu.

Cùng với đó, tiếp tục nghiên cứu xem xét cơ chế thưởng tiền và xét chức danh GS, PGS dựa trên số lượng bài Scopus/WoS theo hướng chuyển sang đánh giá chất lượng thực sự gồm trích dẫn, ảnh hưởng, sản phẩm ứng dụng; thành lập Ủy ban đạo đức nghiên cứu quốc gia độc lập theo mô hình COPE có quyền điều tra và xử lí công khai các trường hợp vi phạm; tăng cường sử dụng công nghệ phát hiện đạo văn và thao tác hình ảnh ở tất cả các tạp chí trong nước và khuyến khích các đại học áp dụng trước khi nộp bài; xử lí nghiêm minh đối với các trường hợp cố ý làm giả dữ liệu.

Huyền Thanh

Nguồn CAND: https://cand.com.vn/giao-duc/giai-phap-nao-de-ngan-ngua-tinh-trang-bai-bao-khoa-hoc-bi-rut--i790712/