Giải thưởng Võ Trường Toản lần thứ 28 năm 2025 - Bài 4: Những đóa hoa lặng thầm tỏa hương
Để đưa nhiều thế hệ học trò 'qua sông', các thầy, cô không chỉ ngày đêm tận tụy bên những trang giáo án, trên bục giảng, mà còn hy sinh lặng thầm ngoài cửa lớp. Trên mỗi bước đường trưởng thành của học trò luôn có sự đồng hành của các thầy, cô giáo.
“Quả ngọt” từ sự kiên trì
Năm 1992, hành trang bước vào nghề giáo của cô Phạm Thị Ngọc Tuyền, giáo viên Trường Giáo dục chuyên biệt Thảo Điền (phường An Khánh) gói gọn trong hai chữ “nhiệt huyết”. Khi đó, vừa học xong lớp 10, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên cô Tuyền không tiếp tục con đường học vấn mà sớm bươn chải với nghề giáo viên mầm non.
Năm 2003, Trường Giáo dục chuyên biệt Thảo Điền được thành lập, cô giáo trẻ rẽ hướng qua giáo dục đặc biệt. Ròng rã suốt 7 năm trời, cô vừa đi dạy vừa học bổ túc văn hóa, rồi cao đẳng và cuối cùng là đại học sư phạm chuyên ngành giáo dục đặc biệt. Tấm bằng cử nhân sư phạm là kết quả cho nỗ lực không mệt mỏi của cô.

Cô Phạm Thị Ngọc Tuyền, giáo viên Trường Giáo dục chuyên biệt Thảo Điền (phường An Khánh) với học trò. Ảnh: THU TÂM
Nhớ lại thời gian đầu mới làm quen với trẻ khuyết tật, cô Tuyền gặp không ít khó khăn. Mỗi trẻ khuyết tật là một tính cách, thói quen, biểu hiện rối loạn hành vi khác nhau. Bằng tình yêu thương và sự kiên nhẫn, cô đã bước vào thế giới riêng của các em - nơi chỉ có những thanh âm không tròn vành rõ chữ, những hành động đập phá không chủ đích, sẵn sàng làm đau chính mình, hoặc làm đau cô và bạn học cùng lớp.
Năm học này, lớp cô Tuyền phụ trách có 5 học sinh ở nhiều độ tuổi khác nhau. Trong đó, chỉ một em giao tiếp được bằng ngôn ngữ, những bạn còn lại đều hạn chế giao tiếp. Cô kiên trì dạy các em từng kỹ năng nhỏ nhất, lặp đi lặp lại đến khi các em nhớ và làm được.
Hiện nay, trăn trở lớn nhất đối với cô Ngọc Tuyền là trường chuyên biệt chỉ nhận học sinh đến năm 18 tuổi. Sau độ tuổi đó, một số ít em có thể học nghề, tự chăm sóc bản thân, còn lại hầu hết quanh quẩn ở nhà. “Tôi mong có thêm môi trường sinh hoạt cho trẻ khuyết tật sau năm 18 tuổi, giảm bớt khó khăn cho các em và gia đình”, cô trải lòng.
“Vì học sinh xứng đáng được tỏa sáng!”
Năm 2004, Trương Thị Thùy Trang, cựu học sinh Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn (phường Phước Thắng, TPHCM) “bén duyên” với môn Địa lý vì yêu thích giờ dạy của giáo viên bộ môn này. Từ chỗ yêu thích, thành tích giải ba Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia lớp 12 THPT môn Địa lý giúp Thùy Trang được tuyển thẳng vào Trường Đại học Sư phạm TPHCM, chuyên ngành Sư phạm Địa lý.
Sau khi ra trường, dù có cơ hội giảng dạy ở nhiều môi trường khác nhau như trường phổ thông công lập, trường phổ thông dân lập, trường nghề nhưng cô quyết định chọn giáo dục thường xuyên. Môi trường này đã níu giữ chân cô từ năm 2009 đến nay.
Cô chia sẻ, học viên giáo dục thường xuyên ở nhiều độ tuổi, trình độ năng lực, hoàn cảnh khác nhau; có em vừa học vừa làm, có em trở lại trường sau thời gian dài gián đoạn học tập… “Tôi muốn dùng Địa lí như cây cầu dẫn đường, giúp các em hiểu hơn về thế giới mình đang sống, thấy được vị trí của bản thân, từ đó vững vàng hơn trên hành trình lập thân, lập nghiệp”, cô Trang bày tỏ.

Cô Trương Thị Thùy Trang, giáo viên Trung tâm Giáo dục thường xuyên Lê Quý Đôn (phường Tân Định) đồng hành cùng học trò. Ảnh: THU TÂM
Hơn 16 năm gắn bó với Trung tâm Giáo dục thường xuyên Lê Quý Đôn, cô Trang đã chứng kiến nhiều nỗi mặc cảm, tự ti, muốn buông xuôi của học trò. Trước mỗi trường hợp như vậy, cô không động viên bằng những lời hoa mỹ, mà cố gắng đồng hành với các em qua từng việc nhỏ.
Từ việc xếp chỗ ngồi giúp các em dễ trao đổi với bạn bè, giao nhiệm vụ vừa sức trong giờ học nhóm, thường xuyên hỏi han việc học và cuộc sống riêng của các em, quan trọng hơn hết là thể hiện niềm tin “các em sẽ làm được”. Cô cho rằng, giá trị cao quý của người thầy không phải là bằng khen hay thành tích, mà ở việc giúp một người trẻ đứng dậy sau những lỡ dở để tiếp tục con đường học tập và mở ra cánh cửa mới cho cuộc đời mình.
Hiện nay, thử thách lớn nhất đối với giáo viên giáo dục thường xuyên là giữ được “ngọn lửa” học tập cho học viên. Các em đến lớp sau giờ làm việc, mang theo rất nhiều áp lực cơm áo gạo tiền, trách nhiệm với gia đình, khoảng trống kiến thức… nên dễ chán nản, bỏ học giữa chừng.
Để trở thành điểm tựa cho học viên, cô luôn tự nhắc mình: “người thầy phải thay đổi, trước khi muốn học trò thay đổi”. Vì vậy, cô kiên trì đổi mới phương pháp dạy học, gắn tình huống thực tế với bài giảng trên lớp, tăng cường hoạt động trải nghiệm, thường xuyên trao đổi với học viên nhằm giúp các em tìm thấy niềm vui trong học tập.
Với cô giáo trẻ, chỉ cần một ngày nào đó, học trò quay lại và nói “nhờ cô mà em dám mơ ước, dám thực hiện điều tưởng chừng không thể”, là mọi nỗ lực đều xứng đáng. Trái tim người thầy luôn son sắt niềm tin, chỉ cần học trò không bỏ cuộc, các em sẽ tỏa sáng theo cách của riêng mình.
Trách nhiệm to lớn của “người lái đò”
Trường Tiểu học Cần Thạnh (xã Cần Giờ) cách trung tâm TPHCM hơn 50km, nép mình khiêm tốn sát bãi biển Cần Giờ. Tiết học môn Đạo đức lớp 5 với chủ đề “Em nhận biết khó khăn trong học tập và cuộc sống” do cô Nguyễn Thị Mỹ Dung giảng dạy bắt đầu với trò chơi “Rùa con qua sông” đầy hứng khởi.
Học sinh được tương tác trực tiếp trên màn hình cảm ứng. Mỗi câu trả lời đúng của học sinh giúp chặng đường về nhà của rùa con gần hơn, khiến cả lớp reo hò phấn khích.
Cô Nguyễn Thị Mỹ Dung, giáo viên Trường Tiểu học Cần Thạnh (xã Cần Giờ) trong giờ lên lớp. Ảnh: KHÁNH CHI
Cô Mỹ Dung chia sẻ: “Tiết học hiệu quả là không chỉ giúp học sinh hiểu bài, mà còn giúp các em cảm thấy yêu thích việc học”. Ngoài giờ học trên lớp, cô tổ chức nhiều hoạt động trải nghiệm thực tế như: trồng cây, đọc sách, thực hành làm sản phẩm… Học sinh được “học bằng tay - nghĩ bằng tim - làm bằng trí tuệ”.
Trong lớp học của cô Dung, một nét chữ chưa đẹp, hay một phép tính sai đều được cô động viên, khích lệ để các em thực hiện tốt hơn vào những lần sau. Nhiều học trò ở làng biển có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ đi làm ăn xa, cô “bù đắp” bằng cách không chỉ dạy chữ mà còn gieo vào lòng các em tình cảm yêu thương.
“Hơn nửa đời người gắn bó với học sinh ở làng biển, tôi xem đó là trách nhiệm, nhưng cũng là vinh dự to lớn, giúp tôi có động lực sống và làm nghề trọn vẹn hơn mỗi ngày”, cô Dung bày tỏ.











