Giảm 30% chi phí, thời gian làm thủ tục: Hai điều doanh nghiệp cần nhất
Một nền kinh tế muốn cất cánh thì trước tiên cần phải có được một bệ phóng tốt. Bệ phóng đó là các điều kiện, quy định pháp lý và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hay môi trường đầu tư, kinh doanh. Để tăng trưởng bền vững, lâu dài, thực chất thông qua ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, vấn đề cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh càng trở nên quan trọng.

Giảm 30% chi phí, thời gian làm thủ tục: Hai điều doanh nghiệp cần nhất - Ảnh minh họa
Bệ phóng để nền kinh tế Việt Nam cất cánh
Trên thực tế, bài toán nâng cao tính thân thiện, hiệu quả của môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam đã được đặt ra từ rất nhiều năm trở lại đây. Tuy nhiên, tại thời điểm này, kỳ vọng tìm ra được một lời giải thỏa đáng mới thật sự mạnh mẽ bởi lẽ vấn đề này đang nhận được sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao từ các cấp lãnh đạo cao nhất.
Ngày 24/2/2025, chủ trì buổi làm việc với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương về mục tiêu tăng trưởng đặt ra cho năm 2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính; ít nhất 30% chi phí kinh doanh, đặc biệt là hải quan, chi phí tuân thủ quy định, chi phí không chính thức, bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết; phấn đấu trong vòng 2-3 năm môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong top 3 của ASEAN.
Ngày 5/3/2025, Văn phòng Chính phủ đã ra Công văn 1767/VPCP-TKBT triển khai kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương ngày 24/2/2025. Công điện 22/CĐ-TTg ngày 9/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội một lần nữa nhắc lại các mục tiêu rất cụ thể nêu trên.
Trong bài viết mới rất quan trọng với tầm nhìn chiến lược về kinh tế tư nhân, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nhấn mạnh: Một nền kinh tế cường thịnh không thể chỉ dựa vào khu vực nhà nước hay đầu tư nước ngoài, mà phải dựa vào nội lực là khu vực tư nhân vững mạnh, đóng vai trò tiên phong trong đổi mới và phát triển đất nước.
Chia sẻ với Báo Điện tử Chính phủ, LS Phạm Ngọc Hưng, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM nhận định, các cấp lãnh đạo đã đưa ra hai vấn đề lớn mà doanh nghiệp cần nhất. Một là giảm chi phí cho các thủ tục kinh doanh, đầu tư. Doanh nghiệp đang phải chịu gánh nặng chi phí, cả chính thức và không chính thức, gây tốn kém cho họ. Hai là chi phí thời gian, giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro bị phạt đơn hàng, bỏ lỡ cơ hội đầu tư.

LS Phạm Ngọc Hưng, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM - Ảnh: VGP/Hoàng Hạnh
Từ một góc độ khác, TS. Huỳnh Thanh Điền, Đại học Nguyễn Tất Thành cho rằng, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta đặt ra mục tiêu tăng trưởng cao, bền vững, liên tục suốt hai thập kỷ tới, để đạt ngưỡng thu nhập trung bình cao năm 2035 và thu nhập cao năm 2045.
Tuy nhiên, mục tiêu này được đưa ra khi mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn đang chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào vốn và đầu tư với tỷ trọng đóng góp của yếu tố này vào GDP trong 10 năm qua luôn ở mức 33-34%; chất lượng nhân lực còn có những hạn chế; chưa có sự liên thông, cộng hưởng nhịp nhàng, kéo nhau cùng lớn mạnh giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực tư nhân trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI.
"Mô hình tăng trưởng dựa trên chiều rộng phải được chuyển đổi sang chiều sâu, hiệu quả kinh doanh và đầu tư cao hơn. Muốn làm được điều này, phải cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư. Đây là bệ phóng để nền kinh tế Việt Nam cất cánh", TS. Huỳnh Thanh Điền nhấn mạnh.
Từ quyết tâm đến hành động
Đương nhiên, sẽ cần một chặng đường để hiện thực hóa chỉ đạo từ các cấp lãnh đạo bằng các hành động chính sách phù hợp. Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2025 đưa ra nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật; cắt giảm, đơn giản thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, minh bạch, lành mạnh để hỗ trợ doanh nghiệp. Đáng chú ý, Văn phòng Chính phủ được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị quyết phê duyệt Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh giai đoạn 2025 – 2030; hoàn thành trước ngày 31/3/2025.
LS Phạm Ngọc Hưng đánh giá, mục tiêu giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính; ít nhất 30% chi phí kinh doanh, đặc biệt là hải quan, chi phí tuân thủ quy định, chi phí không chính thức, bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết… có thể hoàn thành trong năm 2025.
Thứ nhất, chúng ta đã ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết, xử lý các thủ tục hành chính liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh và trong thời gian tới, cần đẩy mạnh việc này và thực hiện một cách triệt để, thống nhất, xóa bỏ tình trạng "một cửa nhưng nhiều dấu", doanh nghiệp nộp hồ sơ giấy tờ và được trả kết quả trên hệ thống, có phương thức để doanh nghiệp chủ động xem được tiến trình xử lý hồ sơ để bổ sung, hoàn thiện nếu cần thiết, cũng theo phương thức trực tuyến…
Ngoài ra, có thể xem xét ứng dụng các công nghệ mới như dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý, lưu trữ hồ sơ, xử lý yêu cầu hay vướng mắc của doanh nghiệp để đẩy nhanh thời gian giải quyết các thủ tục liên quan tới kinh doanh, đầu tư. Việc ứng dụng công nghệ còn giảm tiếp xúc giữa người dân với các đầu mối xử lý thủ tục, giảm thiểu nguy cơ phát sinh chi phí không chính thức.
Thứ hai, việc sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn hơn sẽ đồng thời giảm thiểu các tầng nấc trung gian trong xử lý các thủ tục hành chính. Tuy nhiên, để đảm bảo công việc thông suốt, hiệu quả, sắp xếp bộ máy cần đi cùng với sắp xếp vị trí công việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, giảm thiểu những thủ tục không cần thiết…

TS. Huỳnh Thanh Điền - Ảnh: VGP/Hoàng Hạnh
Đồng tình với ý kiến trên, TS. Huỳnh Thanh Điền cho biết, qua tiếp xúc với doanh nghiệp thời gian gần đây, một số doanh nghiệp chia sẻ về việc họ gặp vướng mắc về thủ tục pháp lý, ví dụ, quy định cấp phép chung nhưng ở các tỉnh khác nhau, thủ tục thẩm duyệt cấp phép khác nhau. Họ hi vọng việc thực hiện chủ trương sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã sẽ không tạo ra những gián đoạn, chậm trễ trong việc xét duyệt hồ sơ.
Dù vậy, nhìn bức tranh tổng thể, vị chuyên gia vẫn lạc quan rằng, nếu quyết tâm, có cách tiếp cận đúng đắn và các phương án thực hiện hợp lý, chúng ta có thể cắt giảm được nhiều hơn con số 30% chi phí và thời gian cho các thủ tục hành chính liên quan tới hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Đầu tiên, phải để doanh nghiệp được làm những gì pháp luật không cấm, như chỉ đạo thống nhất từ các cấp lãnh đạo cao nhất. Muốn vậy, rà soát, cắt giảm điều kiện kinh doanh, các giấy phép con, chỉ áp dụng những giấy phép, điều kiện thực sự cần thiết, theo thông lệ quốc tế với các ngành đặc thù như tài chính, giáo dục, y tế, thực phẩm…
Quan điểm giảm thiểu tối đa rào cản với doanh nghiệp muốn gia nhập ngành cần được thể hiện ở việc nới lỏng quy định về vốn pháp định, đặc biệt với các ngành, lĩnh vực mới dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Cần làm sao để cá nhân có ý tưởng tốt thì có thể đem dự án đi thuyết phục nhà đầu tư, cùng góp vốn thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh chứ không cần phải có vốn trước mới được mở doanh nghiệp rồi từ đó đi kêu gọi thêm đầu tư, cản trở người có suy nghĩ và ý tưởng đột phá.
Một vấn đề khác là cần nới bớt điều kiện chứng chỉ ngành nghề, chỉ quy định với các ngành nghề đặc thù. Đối với các chứng chỉ nghề, kỹ năng hay chứng chỉ an toàn, nên tạo điều kiện để doanh nghiệp phối hợp đào tạo, cấp chứng chỉ, đảm bảo chất lượng đầu ra đáp ứng yêu cầu của từng doanh nghiệp, từng ngành, từng lĩnh vực.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện, cần xác định phương châm xuyên suốt là chuyển đổi từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Phía quản lý công bố quy chuẩn cho doanh nghiệp tùy theo quy mô, ngành, lĩnh vực, ngoài những ngành cần yêu cầu nghiêm ngặt, ai đủ điều kiện thì cứ tham gia, cơ quan quản lý sẽ tiến hành hậu kiểm, xử lý sai phạm (nếu có).
Với những lĩnh vực doanh nghiệp không tự làm được như đảm bảo quy chuẩn xây dựng, quy chuẩn phòng cháy chữa cháy…, tạo điều kiện hình thành các đơn vị tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp và chịu trách nhiệm đảm bảo sự tuân thủ của họ trong các lĩnh vực này. Có như vậy, sau khi bộ máy hành chính được tinh giản, các thủ tục hành chính, điều kiện sản xuất, kinh doanh vẫn sẽ được thực hiện đầy đủ, nhanh chóng, hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp.
Cuối cùng, theo vị chuyên gia, nên coi thuế là một công cụ điều tiết để khuyến khích hoặc hạn chế doanh nghiệp tham gia vào từng ngành, từng lĩnh vực, phù hợp với chiến lược chung của toàn nền kinh tế. Chẳng hạn, với những ngành nghề, lĩnh vực có tính chất đầu cơ, nên áp thuế suất cao, điều hướng dòng tiền sang khu vực sản xuất kinh doanh, đổi mới sáng tạo.
Để môi trường kinh doanh, đầu tư thúc đẩy đổi mới sáng tạo
Đối với mục tiêu tăng trưởng dựa vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, TS. Huỳnh Thanh Điền cho rằng, ngoài vấn đề cải thiện thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, sử dụng công cụ thuế hiệu quả… như đã đề cập, hoàn thiện khung khổ pháp lý, hoàn thiện thị trường, xây dựng các chính sách hỗ trợ cũng góp phần tạo nên môi trường hấp dẫn thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Vị chuyên gia gợi ý, Việt Nam nên tham khảo, học hỏi kinh nghiệm từ Trung Quốc. Trong giai đoạn học hỏi công nghệ, kéo dài tới năm 2001, Trung Quốc đã thực hiện một loạt chương trình nghiên cứu và phát triển R&D trung và dài hạn cấp quốc gia, song song với các dự án thương mại hóa để ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển công nghiệp.
Sau đó, Trung Quốc đã đưa ra Chiến lược phát triển thông qua khoa học và giáo dục, nâng cao năng lực đổi mới khoa học công nghệ tại Trung Quốc, phát triển các trường đại học đẳng cấp thế giới để cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hóa.
Đến giai đoạn nội địa hóa công nghệ, Trung Quốc có chính sách thúc đẩy các ngành công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, xác định các ngành công nghệ mới nổi chiến lược để theo đuổi như xe điện, vũ trụ và vệ tinh, siêu máy tính, chất bán dẫn, điện toán lượng tử và truyền thông, AI, 5G, công nghệ sinh học.
Các chính sách của Trung Quốc được thiết kế để liên kết được "doanh nghiệp - trường đại học - viện nghiên cứu" trong việc đổi mới sáng tạo, Chính phủ hỗ trợ, cung cấp kinh phí R&D và các dự án thí điểm cho các công nghệ mới.
"Như vậy, Việt Nam cần phải xây dựng được hạ tầng công nghệ về dữ liệu, AI, hạ tầng công nghệ thông tin cứng… phù hợp với đổi mới sáng tạo, xây dựng được các trung tâm huy động doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này từ trong và ngoài nước, tương tự như Trung tâm Công nghệ Thẩm Quyến của Trung Quốc, phát triển được các khuôn khổ và thị trường phục vụ cho hoạt động nghiên cứu công nghệ, đổi mới sáng tạo như thị trường khoa học công nghệ, các quy định bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích cá nhân, tổ chức đăng ký bằng sáng chế, hệ sinh thái khởi nghiệp... Phát triển thị trường vốn cho nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, khuyến khích nguồn lực tư nhân tham gia vào hoạt động này cũng là một vấn đề cần được nghiên cứu và đưa ra được phương án phù hợp với điều kiện của Việt Nam", TS. Huỳnh Thanh Điền khuyến nghị.