Giảm thiểu thủ tục hành chính để thu hút và sử dụng hiệu quả viện trợ phi ODA
Theo ông Phạm Quang Tú - Phó Giám đốc Quốc gia, Tổ chức Oxfam tại Việt Nam, để đảm bảo thu hút và sử dụng hiệu quả viện trợ phi ODA, việc giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo niềm tin và cơ hội hợp tác giữa bên cung cấp viện trợ và bên tiếp nhận viện trợ thông qua sự quản lý, điều phối của Nhà nước là vô cùng quan trọng.
PV: Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý xây dựng dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 80/2020/NĐ-CP về quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho Việt Nam. Ông có bình luận gì về những điểm mới của dự thảo lần này?

Ông Phạm Quang Tú
Ông Phạm Quang Tú: Trước hết, chúng tôi hoan nghênh Bộ Tài chính đã chủ trì, cùng với các cơ quan liên quan rà soát và sửa đổi nội dung Nghị định số 80/2020/NĐ-CP (Nghị định 80), xem xét các thách thức đã được ghi nhận trong quá trình thực hiện nghị định này và đề xuất nhiều điểm tích cực cho giai đoạn mới.
Chúng tôi đồng tình về tính cần thiết, mục đích và quan điểm xây dựng Nghị định sửa đổi, trong đó nhấn mạnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng viện trợ; phù hợp với chủ trương, đường lối, lợi ích của Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết; đồng bộ hóa với các chủ trương, chính sách ban hành gần đây của Việt Nam, đặc biệt là khuyến khích, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Nội dung dự thảo Nghị định đã thể hiện rõ tinh thần phân cấp, phân quyền, góp phần cắt giảm thủ tục hành chính và trực tiếp nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan chịu trách nhiệm ra quyết định với nhiều điểm mới, tích cực.
Theo đó, dự thảo Nghị định đã cập nhật và đồng bộ hóa với hệ thống pháp luật có liên quan, bao gồm: Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Ngân sách nhà nước; Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Luật Tổ chức chính quyền địa phương và thực tiễn triển khai hợp nhất các bộ, ngành, sáp nhập địa giới hành chính trong thời gian qua.
Chúng tôi đặc biệt hoan nghênh dự thảo đã có bước tiến trong việc rút gọn một số thủ tục hành chính về phê duyệt tiếp nhận viện trợ như: giao thẩm quyền cho cơ quan chủ quản quyết định việc lấy ý kiến các cơ quan liên quan đối với một số loại viện trợ và rút ngắn thời gian xử lý thủ tục thẩm định từ 20 ngày xuống còn 15 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Trung tâm phục vụ hành chính công Hà Nội. Ảnh: Dũng Minh
Cùng với đó là tăng cường phân cấp, phân quyền: Trao thẩm quyền cho người đứng đầu cơ quan chủ quản phê duyệt các khoản viện trợ thuộc các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, tôn giáo và hỗ trợ xây dựng các văn bản pháp luật. Việc này cũng góp phần nâng cao trách nhiệm giải trình của bên được quyền ra quyết định.
PV: Dự thảo nghị định mới thay thế Nghị định 80 có nhiều điểm cải cách thủ tục, chuyển đổi số và minh bạch hóa, bao gồm cả việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về viện trợ. Theo ông, cần làm gì để hệ thống này thực sự minh bạch, tạo thuận lợi cho cả cơ quan quản lý, đơn vị tiếp nhận và củng cố, gia tăng niềm tin của các nhà tài trợ phi ODA?
Ông Phạm Quang Tú: Chúng tôi hoan nghênh việc dự thảo đưa ra quy định và kế hoạch xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về viện trợ không hoàn lại của nước ngoài dành cho Việt Nam do Bộ Tài chính chủ trì, chú trọng cơ chế báo cáo, giám sát thông qua hệ thống điện tử. Nếu được thực hiện, đây sẽ là giải pháp đột phá nhằm góp phần giảm thiểu thời gian làm thủ tục và tăng cường sự minh bạch, hiệu quả của vốn viện trợ; đồng thời cải thiện và tăng cường niềm tin, sự khích lệ đối với các bên cung cấp viện trợ không hoàn lại không thuộc ODA.
Để thực sự có hiệu quả, thì cơ sở dữ liệu này không nên chỉ là nơi thu thập, lưu trữ thông tin, cơ sở dữ liệu tĩnh, mà cần xây dựng theo hướng động và mở. Theo đó, cần được phân cấp, phân quyền để các bên liên quan (cơ quan quản lý nhà nước, bên cung cấp viện trợ, bên tiếp nhận viện trợ) có thể chủ động tải và chỉnh sửa, bổ sung thông tin của mình. Đồng thời, các thủ tục hành chính theo quy định của nghị định này cũng sẽ được thực hiện trên đó và liên thông với Cổng thông tin dịch vụ công quốc gia.
PV: Từ kinh nghiệm của một tổ chức cứu trợ nhân đạo tại Việt Nam, Oxfam có góp ý gì vào dự thảo Nghị định để Việt Nam có thể thu hút và sử dụng hiệu quả viện trợ phi ODA?
Viện trợ không hoàn lại là đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng
Về quản lý tài chính đối vơíviện trợ, theo thông lệ quốc tế và theo quy định tại Luật Thuế giá trị gia tăng, thì viện trợ không hoàn lại là đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Việc thanh toán, quyết toán thuế đối với các khoản viện trợ thực hiện theo các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, theo ông Phạm Quang Tú, cần bổ sung quy định về xử lý lãi tiền gửi từ khoản viện trợ trong trường hợp có cam kết khác giữa bên cung cấp viện trợ và bên tiếp nhận viện trợ.
Ông Phạm Quang Tú: Để đảm bảo thu hút và sử dụng hiệu quả viện trợ phi ODA, thì việc giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo niềm tin, cơ hội hợp tác giữa bên cung cấp viện trợ và bên tiếp nhận viện trợ thông qua sự quản lý, điều phối của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Chúng tôi có một số đề xuất đối với dự thảo Nghị định sửa đổi như sau:
Về sở hữu nguồn viện trợ, Oxfam đồng ý với nguyên tắc: bên tiếp nhận viện trợ không phải hoàn trả cho bên cung cấp viện trợ và toàn quyền sở hữu đối với tiền mặt, hàng hóa và các sản phẩm hữu hình được hình thành từ nguồn lực được chuyển giao. Tuy nhiên, đối với sở hữu trí tuệ từ các sản phẩm như báo cáo nghiên cứu và các sáng chế, thì cần cân nhắc quy định theo hướng đồng sở hữu hoặc theo thỏa thuận ghi trong văn bản hợp tác giữa bên cung cấp viện trợ và bên tiếp nhận viện trợ.
Điều này nhằm đảm bảo tuân thủ các điều luật quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đủ “uyển chuyển” để không làm mất nguồn tài trợ, đặc biệt là khi có liên quan đến các dự án khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát minh và/hoặc đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia dự án/phi dự án có tài trợ/viện trợ không hoàn lại.
Về trình tự, thủ tục thẩm định và phê duyệt văn kiện dự án, nên cân nhắc quy định thời hạn phản hồi của các cơ quan liên quan khi được xin ý kiến, bởi dự thảo hiện tại chỉ nêu tổng thời gian thẩm định, bao gồm cả xin ý kiến bằng văn bản là 15 ngày.
Bên cạnh đó, nên quy định: đối với các khoản viện trợ ở địa phương, cơ quan chủ quản lấy ý kiến bằng văn bản từ các cơ quan liên quan đối với các khoản viện trợ có nội dung thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng, tôn giáo, góp ý xây dựng pháp luật và dự án có giá trị viện trợ bằng hoặc lớn hơn 300.000 USD. Các khoản viện trợ không thuộc một hay nhiều nội dung nêu trên, cơ quan chủ quản quyết định việc lấy ý kiến các cơ quan liên quan và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Việc điều chỉnh này để đảm bảo thực hiện đồng bộ quy định về phê duyệt viện trợ ở trung ương và địa phương.
Ngoài ra, về phê duyệt khoản viện trợ, tương tự đối với các bước khác, cần quy định rõ thời hạn cơ quan chủ quản ra quyết định phê duyệt (hoặc từ chối phê duyệt) kể từ khi có văn bản tổng hợp của cơ quan chủ trì thẩm định…
Một văn bản chỉ đi vào cuộc sống khi được thực thi tốt. Theo đó, các bên liên quan phải đảm bảo thực hiện đúng, đủ trách nhiệm của mình như đã được quy định; cơ quan chủ quản và đơn vị chủ trì tham mưu thẩm định tuân thủ quy định về tiến trình phê duyệt, không đùn đẩy trách nhiệm bằng cách luôn lấy ý kiến của các bên liên quan, dù quy định không bắt buộc. Đồng thời, các cơ quan được lấy ý kiến theo quy định thực hiện nghiêm yêu cầu về thời gian phản hồi ý kiến.
PV: Xin cảm ơn ông!