Giáo dục nghề nghiệp góp phần giảm nghèo bền vững

Trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, dự án số 4 gồm: 'Phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững' được xác định là một dự án riêng biệt với đầu tư lớn, đối tượng rõ ràng. Dự án đã liên tục phát huy được hiệu quả, giúp nhiều người dân ở nhiều lứa tuổi có việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống.

Góp sức lớn trong công tác giảm nghèo

Từ nguồn vốn của chương trình, các địa phương đã quyết liệt vào cuộc, hỗ trợ cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện đào tạo cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo; hỗ trợ khởi nghiệp và tạo việc làm trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo. Đồng thời, phát triển mô hình gắn kết giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo; đào tạo nghề cho người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động thu nhập thấp.

Kết quả, trong 5 năm qua, cả nước có gần 177,8 nghìn người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề; 146 cơ sở, được hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo. Đồng thời, xây dựng 131 bộ chuẩn về giáo dục nghề nghiệp; 1.981 chương trình, giáo trình, học liệu; đào tạo, bồi dưỡng cho 9.461 lượt nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp.

Trong 5 năm qua, cả nước có gần 177,8 nghìn người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được hỗ trợ đào tạo nghề. Ảnh: Ngọc Linh

Trong 5 năm qua, cả nước có gần 177,8 nghìn người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được hỗ trợ đào tạo nghề. Ảnh: Ngọc Linh

Các nội dung về giáo dục nghề nghiệp được triển khai đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn về cả quy mô và chất lượng đào tạo; gắn kết chặt chẽ đào tạo với việc làm.

Ông Đào Trọng Độ, Trưởng phòng Giáo dục chính quy, Vụ Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, giáo dục nghề nghiệp và giảm nghèo bền vững có mối quan hệ chặt chẽ.

Thứ nhất, giáo dục nghề nghiệp trang bị kiến thức, kỹ năng nghề và tác phong công nghiệp cho người lao động, giúp họ có khả năng tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo việc làm, từ đó có thu nhập ổn định và thoát nghèo. Thứ hai, giáo dục nghề nghiệp góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển, tạo thêm việc làm và cơ hội thăng tiến cho người lao động.

Thứ ba, giáo dục nghề nghiệp góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp năng suất thấp sang các khu vực công nghiệp và dịch vụ có năng suất và thu nhập cao hơn. Thứ tư, giáo dục nghề nghiệp khuyến khích tinh thần học tập suốt đời và nâng cao trình độ liên tục, giúp người lao động thích ứng với những thay đổi của thị trường lao động và duy trì khả năng tìm kiếm việc làm, tránh rơi vào tình trạng nghèo đói.

Thực tế, giáo dục nghề nghiệp đã đóng góp quan trọng vào công tác giảm nghèo bền vững ở Việt Nam thông qua việc: nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ngày càng tăng, đạt 29,5% trong quý III/2025, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Còn nhiều thách thức

Theo số liệu từ Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đến cuối năm 2024 còn 1,93%, (tỷ lệ đầu kỳ là 5,2%, bình quân giảm 1,03%), đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao giảm từ 1,0 - 1,5%/năm. Đến năm 2025, có 19 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn (đạt 35,18%) vượt mục tiêu Quốc hội, Chính phủ giao.

Tuy nhiên, bài toán đặt ra cho giai đoạn mới là chống "tái nghèo", muốn vậy chương trình giáo dục nghề nghiệp, nhất là tại các vùng nghèo, vùng khó khăn, cần phải hiệu quả, thực chất hơn. Do đó, cần thiết có chính sách phù hợp với đặc thù địa phương thông qua việc xác định rõ ngành nghề phù hợp với môi trường, văn hóa, điều kiện tự nhiên, nguồn lao động của vùng; nên triển khai học nghề ngắn hạn linh hoạt, linh hoạt về thời gian học để người lớn tuổi, lao động nông nghiệp có thể tham gia.

Cùng với đó, tăng cường hỗ trợ ngân sách cho trường nghề vùng nghèo nhằm mua sắm thiết bị thực hành, cập nhật công nghệ, bảo đảm việc dạy thực hành có chất lượng cao. Một vấn đề khác là cần đào tạo, tuyển dụng giáo viên có năng lực, đặc biệt những người am hiểu vùng và chịu khó về địa bàn khó khăn.

Theo ông Đào Trọng Độ, các địa phương cần xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển giáo dục nghề nghiệp gắn với giảm nghèo bền vững, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu phát triển của địa phương; huy động nguồn lực địa phương và xã hội cho phát triển giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt là đào tạo nghề cho người nghèo, người dân tộc thiểu số; tăng cường tuyên truyền, vận động người dân, đặc biệt là người nghèo, người dân tộc thiểu số tham gia học nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp.

Đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cần đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực và đáp ứng nhu cầu thị trường lao động; tăng cường hợp tác với doanh nghiệp trong đào tạo, thực tập và tuyển dụng người học sau tốt nghiệp; phát triển các mô hình đào tạo đa dạng, linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của từng nhóm đối tượng, trong đó có người nghèo, người dân tộc thiểu số.

Cùng với đó, các chính sách hỗ trợ học viên học nghề cần toàn diện hơn, trợ cấp đủ kinh phí cho học viên đi lại, ăn ở, học liệu, đặc biệt là các học viên từ hộ nghèo, vùng sâu vùng xa. Khi các giải pháp trên được triển khai đồng bộ, hoạt động giáo dục nghề nghiệp sẽ phát huy hiệu quả hơn, giúp người dân có việc làm bền vững, tự mình vươn lên và làm chủ cuộc sống của chính mình.

Dương Lê

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/giao-duc-nghe-nghiep-gop-phan-giam-ngheo-ben-vung-10390951.html