Giáo dục sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên: Nhận diện đúng và trúng vấn đề
TS.BS Nguyễn Thị Thu Phương – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bạch Mai chia sẻ về tầm quan trọng của công tác giáo dục sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên hiện nay.

Nhiều trường hợp đến Trung tâm Hỗ trợ sinh sản để được tư vấn về sức khỏe tiền hôn nhân. Ảnh: Đình Tuệ
Những con số đáng suy ngẫm
- Bà đánh giá như thế nào về thực trạng, tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức về bảo vệ sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên, nhất là đối tượng học sinh trung học?
- Sức khỏe sinh sản không chỉ là vấn đề y tế mà là một phần thiết yếu trong sự phát triển toàn diện mỗi con người.
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sức khỏe sinh sản là trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội trong mọi vấn đề liên quan đến hệ thống sinh sản, chức năng và quá trình sinh sản chứ không chỉ đơn thuần là không mắc bệnh.
Với lứa tuổi vị thành niên – đặc biệt học sinh trung học, đây là giai đoạn bắt đầu trải qua nhiều thay đổi lớn về mặt thể chất, tâm lý và xã hội. Nhưng đây cũng là độ tuổi các em dễ bị tổn thương nhất nếu không được trang bị kiến thức và kỹ năng phù hợp.
Thực tế nhiều em không hiểu đúng về cơ thể mình, thiếu kỹ năng tự bảo vệ và dễ tiếp cận thông tin sai lệch từ mạng xã hội. Theo thống kê của WHO, mỗi năm có khoảng 21 triệu trường hợp mang thai ở nữ giới từ 15 đến 19 tuổi tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình; trong đó hơn 10 triệu trường hợp là mang thai ngoài ý muốn.
Dự báo đến năm 2025, gần 12 triệu trẻ vị thành niên sẽ sinh con, với nguy cơ biến chứng sản khoa cao hơn rất nhiều so với nhóm trưởng thành. Cứ 23 ca tử vong mẹ thì có một ca xảy ra ở nhóm từ 15 - 19 tuổi.
Tại Việt Nam, tình hình cũng đáng báo động. Theo số liệu từ Cục Dân số, Bộ Y tế, tỷ suất sinh ở nữ vị thành niên (15 - 19 tuổi) là khoảng 42 ca trên 1.000, tức khoảng 4,2% nữ giới ở nhóm tuổi này đã từng sinh con.
Một khảo sát gần đây tại các tỉnh miền núi cho thấy: Có tới 85% trường hợp mang thai tuổi vị thành niên có biến chứng; trong đó thiếu máu, sinh non, nhiễm trùng tiết niệu và trẻ sinh nhẹ cân là những hậu quả phổ biến.
- Bà nghĩ sao về ý kiến cho rằng, việc giáo dục sức khỏe sinh sản chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành Y tế?
- Từ các số liệu trên, chúng ta thấy đây không còn là vấn đề riêng của ngành Y tế mà là cả xã hội. Khi một học sinh phải bỏ học để sinh con, hoặc đối mặt với hậu quả của quyết định chưa kịp suy nghĩ chín chắn thì cả tương lai, sự nghiệp và chất lượng cuộc sống của em sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
Vì vậy, tôi cho rằng việc nâng cao nhận thức, giáo dục và trang bị kiến thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh trung học vô cùng cấp thiết. Các em cần được học về dậy thì, kinh nguyệt, giới tính, phương pháp tránh thai an toàn, kỹ năng từ chối, bảo vệ bản thân trước xâm hại và đặc biệt là tư duy có trách nhiệm với sức khỏe, tương lai của chính mình.
Điều quan trọng nhất, giáo dục sức khỏe sinh sản không nên được bắt đầu khi đã quá muộn. Đây cần là một phần trong chương trình giáo dục toàn diện với sự đồng hành của gia đình, nhà trường, ngành Y tế và toàn xã hội. Khi được tiếp cận thông tin đúng đắn, các em sẽ có khả năng tự bảo vệ bản thân, sống lành mạnh và tự tin bước vào đời.

TS.BS Nguyễn Thị Thu Phương – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bạch Mai. Ảnh: Đình Tuệ
“Bắt đúng mạch” vấn đề
- Theo bà, nguyên nhân của thực trạng trên bắt nguồn từ đâu?
- Có thể nói, thực trạng còn nhiều khoảng trống trong việc chăm sóc và giáo dục sức khỏe sinh sản cho vị thành niên hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên nhân đan xen.
Ở lứa tuổi 11 - 15 (tức từ lớp 6 - lớp 8), đây là giai đoạn học sinh bước vào tuổi dậy thì với nhiều thay đổi quan trọng nhưng lại thiếu những kiến thức nền tảng về cơ thể, kinh nguyệt, tình dục an toàn và kỹ năng tự bảo vệ.
Thêm vào đó, rào cản văn hóa - xã hội khiến nhiều phụ huynh và giáo viên vẫn e ngại đề cập đến các chủ đề liên quan đến sức khỏe sinh sản. Việc tránh né này vô hình trung khiến học sinh tìm kiếm thông tin từ mạng xã hội – nơi có không ít nguồn tin sai lệch, thiếu kiểm chứng và dễ gây hiểu nhầm nghiêm trọng.
Một nguyên nhân khác là sự thiếu hụt các dịch vụ y tế thân thiện với vị thành niên. Nhiều em không biết mình có thể đến đâu để được tư vấn một cách bảo mật, tin cậy và không bị phán xét. Nhiều cơ sở y tế tuyến cơ sở hiện chưa có hệ thống tư vấn riêng cho nhóm tuổi này.
- Từ những căn nguyên đó, chúng ta cần có nhóm giải pháp cụ thể ra sao từ phía các nhà trường, chuyên gia y tế và xã hội, thưa bà?
- Để cải thiện tình trạng trên, tôi cho rằng cần triển khai đồng bộ ba nhóm giải pháp trọng tâm.
Trước hết, về phía nhà trường, cần tích cực tích hợp giáo dục giới tính toàn diện vào chương trình học một cách bài bản, phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Đồng thời, tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề có sự tham gia của bác sĩ, chuyên gia để học sinh được tiếp cận thông tin chính thống.
Về phía ngành Y tế, cần phát triển các dịch vụ y tế thân thiện với vị thành niên, tạo không gian tư vấn riêng tư tại trường học hoặc y tế cơ sở, đồng thời đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có kỹ năng giao tiếp, tư vấn hiệu quả cho thanh thiếu niên.
Cuối cùng, tăng cường phối hợp liên ngành giữa gia đình – nhà trường – cơ sở y tế và các tổ chức xã hội; đặc biệt ưu tiên triển khai tại các khu vực khó khăn, vùng sâu xa, nhóm học sinh dân tộc thiểu số và hoàn cảnh kinh tế yếu, nơi các em dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất.

Với lứa tuổi học sinh trung học, việc trang bị các kiến thức về bảo vệ sức khỏe sinh sản vô cùng cần thiết. Ảnh: Đình Tuệ
Kết hợp đồng bộ nhiều hoạt động
- Những năm qua, Trung tâm Hỗ trợ sinh sản (Bệnh viện Bạch Mai) đã triển khai các hoạt động gì để góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về sức khỏe sinh sản vị thành niên?
- Thời gian qua, chúng tôi đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về sức khỏe sinh sản, đặc biệt ở lứa tuổi vị thành niên.
Tiêu biểu có thể kể đến các chương trình truyền thông, tư vấn sức khỏe sinh sản tại trường học và cộng đồng, giúp học sinh tiếp cận kiến thức đúng đắn về dậy thì, giới tính và phòng tránh rủi ro. Trung tâm cũng thực hiện khám, tư vấn tiền hôn nhân bao gồm sàng lọc sức khỏe sinh sản và hỗ trợ tâm lý trước khi kết hôn.
Ngoài ra, chúng tôi đã đưa nội dung giáo dục giới tính vào chương trình đào tạo cán bộ y tế, góp phần lan tỏa kiến thức chuyên môn từ bệnh viện tới trường học, gia đình và xã hội.
Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bạch Mai không chỉ tập trung vào điều trị vô sinh hiếm muộn mà còn chủ động mở rộng vai trò của mình trong công tác truyền thông – giáo dục – dự phòng, đặc biệt đối với nhóm vị thành niên và thanh niên những người đang ở giai đoạn hình thành nền tảng sức khỏe sinh sản tương lai. Những hoạt động này nhằm xây dựng nền tảng sức khỏe sinh sản vững chắc, chủ động và an toàn cho thế hệ trẻ.
Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ mở rộng mô hình tư vấn thân thiện đến các khoa phòng, trung tâm trực thuộc Bệnh viện cũng như các đối tác trong và ngoài của Bệnh viện Bạch Mai. Đồng thời chú trọng đến các địa bàn khó khăn thông qua việc phối hợp với các tổ chức/cá nhân có hoạt động thiện nguyện để kết hợp tuyên truyền, giáo dục sức khỏe sinh sản cho mọi đối tượng người dân.
Bằng cách tiếp cận đa ngành, lấy thanh thiếu niên làm trung tâm, chúng tôi tin rằng việc trang bị kiến thức đúng đắn từ sớm sẽ giúp các em tự tin hơn trong hành vi sức khỏe, giảm thiểu nguy cơ mang thai ngoài ý muốn và bệnh lây truyền qua đường tình dục; góp phần xây dựng một thế hệ khỏe mạnh, chủ động; có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng.
- Trong quá trình triển khai, các bác sĩ đối mặt với những khó khăn và thuận lợi như thế nào?
- Chúng tôi gặp không ít khó khăn, đặc biệt là rào cản văn hóa. Một số phụ huynh và giáo viên còn e ngại khi đề cập đến các chủ đề nhạy cảm như tình dục, tránh thai hay dậy thì. Bản thân học sinh cũng ngại chia sẻ, chưa sẵn sàng tiếp cận dịch vụ y tế nếu không có môi trường tin cậy. Mặt khác, nguồn lực chuyên môn và cơ sở vật chất còn hạn chế khiến việc triển khai các hoạt động đồng bộ gặp trở ngại nhất định…
Tuy nhiên, chúng tôi ghi nhận nhiều thuận lợi tích cực. Trước hết là sự quan tâm ngày càng lớn từ Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT, cũng như các tổ chức trong nước và quốc tế. Truyền thông đại chúng và mạng xã hội hiện cũng vào cuộc mạnh mẽ, tạo điều kiện lan tỏa thông điệp về sức khỏe sinh sản đến thanh thiếu niên một cách rộng rãi và hiệu quả hơn.
Đây là nền tảng thuận lợi để chúng tôi tiếp tục mở rộng các chương trình và mô hình tiếp cận thân thiện với giới trẻ. Rào cản lớn nhất hiện nay không phải là thiếu quan tâm, mà ở sự e ngại khi đối diện với các nội dung được cho là “nhạy cảm”. Khi gia đình, nhà trường và y tế cùng mở lòng, lắng nghe và đồng hành, thì việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho vị thành niên sẽ trở nên tự nhiên, hiệu quả và bền vững.
- Bài học kinh nghiệm rút ra đằng sau những câu chuyện thực tế liên quan đến sức khỏe tiền hôn nhân, bảo vệ trẻ em gái mà các bác sĩ từng tư vấn là gì?
- Trong quá trình tư vấn sức khỏe sinh sản và tiền hôn nhân, chúng tôi đã gặp không ít trường hợp khiến đội ngũ y tế thực sự trăn trở.
Một trường hợp gần đây là nữ sinh lớp 10 đến khám vì rối loạn kinh nguyệt và mệt mỏi kéo dài. Qua kiểm tra và trò chuyện riêng tư, chúng tôi phát hiện em đã mang thai gần 20 tuần. Điều đáng nói em không hề biết rõ mình đang mang thai, cũng không hiểu hậu quả của việc quan hệ không an toàn.
Em chia sẻ rằng mình từng tìm hiểu thông tin về “tình yêu” và “giới tính” trên một số trang mạng và hội nhóm kín nhưng phần lớn là thông tin sai lệch, phiến diện và không có cơ sở khoa học.
Thực tế cho thấy, giáo dục giới tính toàn diện cần được bắt đầu sớm, trước khi trẻ bước vào tuổi dậy thì (khoảng 11 - 12 tuổi) thay vì chờ đến khi có “vấn đề” mới can thiệp. Việc trẻ tò mò là hoàn toàn tự nhiên, nhưng nếu không có người lớn đồng hành hoặc không được cung cấp nguồn thông tin đúng, các em sẽ tìm đến mạng xã hội, các diễn đàn ẩn danh – nơi chứa đầy rủi ro và thông tin sai lệch.
Đồng thời, việc xây dựng môi trường an toàn, không phán xét cực kỳ quan trọng. Khi các em cảm thấy tin tưởng và được tôn trọng sẽ dám chia sẻ, tìm đến bác sĩ, nhà trường hoặc người lớn đáng tin cậy để nhờ tư vấn kịp thời. Ngược lại, sự im lặng vì sợ bị la mắng hay xấu hổ có thể đẩy các em vào tình trạng tổn thương lâu dài về thể chất và tinh thần.
Giải pháp hiệu quả phải là sự kết hợp liên ngành: Giáo dục – Y tế – Truyền thông – Chính sách cùng sự đồng hành của gia đình và cộng đồng.
- Trân trọng cảm ơn bà!
“Tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bạch Mai, chúng tôi xác định rõ vai trò của mình không chỉ là điều trị, mà còn như mắt xích then chốt trong công tác truyền thông – tư vấn – triển khai các mô hình giáo dục sức khỏe sinh sản học đường, cộng đồng và tiền hôn nhân. Mỗi ca tư vấn không đơn thuần là chăm sóc sức khỏe, mà còn là cơ hội để bảo vệ và trao quyền cho thế hệ trẻ, đặc biệt các em gái”. - TS.BS Nguyễn Thị Thu Phương – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bạch Mai