Giáo sư Phạm Đình Ái - Hiệu trưởng Trường Khải Định ngày ấy
HNN - Sau ngày đảo chính Pháp, Nhật Bản tuyên bố giao trả cả ba kỳ của Việt Nam cho Nam Triều. GS. Phạm Đình Ái, Hiệu trưởng Trường Khải Định (Quốc Học Huế ngày nay) đã tranh thủ bối cảnh này thực hiện gấp rút cuộc cải tổ căn bản về giáo dục là dùng Việt ngữ làm chuyên ngữ, để chứng tỏ khả năng của giới trí thức Việt Nam, để cho người Nhật không kịp can thiệp vào tổ chức giáo dục mới của ta.

Khuôn viên Trường Quốc Học Huế. Ảnh: Ngọc Hòa
Sự cải tổ giáo dục được sự đồng tình, góp sức của các giáo sư Trường Khải Định và đồng nghiệp dạy các trường tư thục lớn như GS.Tạ Quang Bửu, Hà Thúc Chính, Hoài Thanh. Cấp vĩ mô thì có nhà giáo - sử gia Trần Trọng Kim, GS. Hoàng Xuân Hãn. Cuộc cải tổ chương trình, hệ thống giáo dục đang diễn ra tương đối suôn sẻ thì Cách mạng tháng 8/1945 thành công, rồi kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ. GS. Phạm Đình Ái được Ủy ban Hành chính (UBHC) Trung Bộ bổ nhiệm Giám đốc Nha Giáo dục kiêm Hiệu trưởng Trường Khải Định. Đầu năm 1947, tất cả các cơ quan Nha - Sở cấp liên khu đều phải sơ tán ra vùng tự do Nghệ Tĩnh, nơi có đủ điều kiện để kháng chiến lâu dài. Từ đây, cuộc đời GS. Phạm Đình Ái rẽ sang một bước ngoặt khác.
Ông nhớ lại ngày đầu tiên cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đêm 19/12/1946, thành phố Huế ít tiếng súng, không căng thẳng như ở Hà Nội. Nhưng một thực tế được quan tâm là có những nơi khi giao tranh, lựu đạn của quân ta được sử dụng thì không nổ. Cũng có những quả lại nổ quá nhanh, lựu đạn chưa kịp tới đúng điểm rơi, thi thoảng có quả nổ ngay trong bàn tay của người rút chốt, rất nguy hiểm. Khắc phục vấn đề này rất cần có sự giúp đỡ, cộng tác của các cán bộ dân sự am hiểu về hóa chất và cơ khí chế tạo. GS. Phạm Đình Ái được giao thêm nhiệm vụ này.
Trung ương nhận định cuộc kháng chiến sẽ kéo dài khoảng mười năm, nên GS. Phạm Đình Ái đã xây dựng kế hoạch làm sao cho thanh niên khỏi bỏ dở việc học hành. Ông cho dời Trường Trung học chuyên khoa Khải Định và Trường Kỹ thuật đệ nhất cấp, là hai trường duy nhất của miền Trung tại Huế, ra Nghệ Tĩnh. Xe lửa Huế - Vinh lúc đó còn hoạt động nên ông cho chuyên chở những thiết bị cồng kềnh, mang vác nặng của thư viện và phòng thí nghiệm ra Chu Lễ. Vùng thị trấn Chu Lễ, thuộc huyện Hương Khê (cũ), nằm ven trục đường sắt Nam - Bắc được mở thêm một trường đệ nhất cấp, gọi là Trường Bình Trị Thiên, dành riêng cho con em ba tỉnh này rời gia đình đi theo kháng chiến. UBHC Kháng chiến Liên khu IV giao nhiệm vụ cho GS. Phạm Đình Ái mở một phòng thí nghiệm điều chế hóa chất phục vụ cho quân đội sản xuất vũ khí. Giáo sư đã triệu tập nhiều giáo viên trẻ của Trường Khải Định, những giáo viên có chuyên môn hóa, lý giỏi.
Trước đây, NGƯT Thân Trọng Ninh cho tôi xem một tập hồi ký, bản viết tay, về thời kỳ dạy học ở Nghệ Tĩnh và thời kỳ làm cộng sự của GS. Phạm Đình Ái lúc bấy giờ. Tôi đã có ý định giúp ông chỉnh sửa lại và để viết một cuốn sách về thầy trò ông trong những ngày kháng chiến - kiến quốc nhưng chưa đủ duyên.
Ông Thân Trọng Ninh kể: “Tôi nhận được quyết định của Giám đốc Nha Học chánh Trung Bộ điều về dạy học ở Trường Khải Định. Khi kháng chiến bùng nổ, tôi nhận lệnh ra dạy ở Trường Phan Bội Châu đóng tại thị xã Đồng Hới. Đang dạy học yên ổn thì lại nhận tiếp công lệnh của Nha Học chánh điều động ra làm việc tại “Phòng thí nghiệm số 1” (gọi tắt là P1) ở Chu Lễ. Thầy Ái còn điều một số bạn đồng nghiệp của tôi như các anh Cung Quang Chương, Tôn Thất Uẩn, Nguyễn Xuân Dỹ… cùng về đây để nhận công việc phục vụ quốc phòng. Ban đầu thầy giao cho tôi công việc sản xuất salpêtre (KNO3) tinh chế để làm poudre noire (bột đen thuốc súng). Một năm sau, thầy điều tôi sang bộ phận thí nghiệm sản xuất acide sulfurique (H2SO4) bằng “phương pháp phòng chì” cùng với anh Hoàng Trọng Cơ, do thầy trực tiếp phụ trách. Những ngày sống gần thầy tôi càng hiểu và quý mến thầy hơn. Thầy là một trí thức, một nhà giáo, một nhà khoa học giỏi được đào tạo ở Pháp nhưng thích nghi nhanh chóng với hoàn cảnh của đất nước. Thầy là một nhà yêu nước, có nhiều đóng góp lớn cho ngành giáo dục và quốc phòng trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến”.
P1, ở bên cạnh xưởng cơ giới Liên khu IV. Trong giai đoạn máy bay của quân Pháp hoạt động ráo riết, để phát giác những trung tâm kháng chiến của ta, P1 được di chuyển địa điểm nhiều lần nhưng công việc nghiên cứu, sản xuất hóa chất không được gián đoạn; cán bộ, nhân viên chia nhau làm việc ba ca; máy chạy không nghỉ, môi trường làm việc trong bầu không khí có nhiều chất độc hại, đặc biệt là khí sulfurơ. Trong điều kiện thiếu thốn nhưng P1 đã đóng góp cho kháng chiến rất nhiều. Đã thành công trong tinh chế hàng tấn salpêtre đưa từ kho thuốc súng chuyển từ Huế ra thành chất Nitrate Potassium (KNO3), điện phân chlorure potassium (KCl), điều chế acide nitrique (HNO3), acide chlorhydrique (HCl), sản xuất chlorate potassium (KClO3), fulminate thủy ngân, chưng gỗ thầu đâu (xoan) để lấy than sản xuất ammoniaque (NH4OH), acide picrique... Đặc biệt nhất là điều chế được acide sulfurique (H2SO4) bằng “phương pháp phòng chì”.
Acide sulfurique là một hóa chất tối cần thiết cho việc điều chế các loại acide khác, dùng làm acquy, sản xuất mực in. Việc điều chế được nó trong điều kiện khó khăn muôn bề, tại một nơi hẻo lánh trong rừng núi sâu, là một điều chưa có ai dám nghĩ tới. Với thành tích có tính huyền thoại này, P1 đã được Bộ Quốc phòng khen ngợi. Ngày 12/6/1948, tại Chu Lễ, Chính phủ Trung ương do Thứ trưởng Bộ Giao thông Công chính Lê Dung làm đại diện đã đọc bản tuyên dương công trạng và gắn “Huân chương kháng chiến” lên ngực GS. Phạm Đình Ái. Đặc biệt, GS. Phạm Đình Ái còn được Bác Hồ viết thư khen ngợi. Đài Tiếng nói Việt Nam đã đọc quyết định này, phát thanh ra nước ngoài để thế giới biết dân tộc Việt Nam không lùi bước trước khó khăn nào.











