Giáp Thìn 60 năm trước: Từ trong ký ức vọng về
Mùa đông năm Giáp Thìn 1964, miền Trung ngập chìm trong trận lụt lịch sử.
Từng là chứng nhân của trận thiên tai khủng khiếp tròn 60 năm về trước, hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế; quê Điện Bàn, Quảng Nam) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia TP HCM; quê Mộ Đức, Quảng Ngãi) nay cùng ôn lại những kỷ niệm không thể nào quên...
PHẠM PHÚ PHONG: Trận lụt năm đó vẫn còn in đậm trong ký ức một đứa trẻ chưa tròn mười tuổi như tôi. Nước vào nhà tôi lúc nửa đêm, lặng lẽ như có sự rình rập từ mấy ngày mưa trước đó và lên rất nhanh. Đang ngủ say, nghe tiếng mẹ tôi gọi dậy, thò chân xuống đất đã thấy nước ngang mắt cá. Cả nhà dậy dọn lương thực, đồ đạc, kê cao giường lên, nhưng chẳng bao lâu sau nước dâng lên lút cả giường, tủ. Cha tôi lót ván lên xà nhà đưa cả gia đình lên đó. Tiếng kêu khóc của trẻ con, tiếng rống của trâu bò, chen lẫn trong tiếng mưa đêm gào thét ào ạt thổi qua.
Xã tôi thời ấy có 4 thôn nằm vây quanh một cánh đồng rộng, giữa cánh đồng có mấy tòa nhà xây là đình Đông Bàn - nơi cụ Phạm Phú Thứ, người anh ruột của ông cố tôi, xây nên để ghi tên những người đỗ đạt, gọi là Văn thánh Đông Bàn. Tôi nhớ, xóm Đình của tôi lúc ấy chỉ có 7-8 nóc nhà nằm bên cạnh đình, chung quanh là đồng ruộng. Ngôi nhà rung rinh theo từng cơn gió. Có chỗ gió thổi mạnh làm tốc mái tranh, trời sáng nhìn ra xung quanh, cánh đồng rộng mênh mông toàn nước như biển cả, dòng nước cuồn cuộn cuốn theo bao nhiêu sinh linh, có cả trâu bò, nhà cửa, cây cối, rác rưởi...
Quê tôi là vùng đất nổi lên giữa sông Thu Bồn, gọi là Gò Nổi. Do sự sắp đặt của tự nhiên, con sông từ thượng nguồn về đến ngã ba Tư Phú rẽ thành hai nhánh, chảy đến Câu Lâu nhập lại thành một dòng, trước khi xuôi về Cửa Đại. Vì vậy, là một miền quê thuộc vùng trũng, là đồng ruộng và vựa lúa của cả huyện, khi nạn đại hồng thủy dâng cao, có nơi nước lút cả nhà, ngập đến ngọn tre. Ngồi trên tận sát mái nhà, nhìn ra mặt nước dâng mênh mông và chảy xiết trước mặt, mới thấy hết thân phận mong manh, bèo bọt của kiếp người.
Là vùng nông thôn, dân cư thưa thớt, nằm tách biệt ra ngoài cánh đồng, nước lại dâng lên lúc nửa đêm, không ai kịp cứu giúp ai được điều gì. Có khi lẫn trong tiếng gào thét của mưa gió và nước cuốn, có cả tiếng kêu cứu của hàng xóm, cũng đành im lặng một cách bất lực hoặc đáp lại bằng sự động viên, kêu gọi sự nỗ lực chống chọi với lũ dữ để vượt qua thôi.
Không bị nước cuốn trôi nhưng có thể bị chết vì đói và khát. Ngày đầu, cha tôi lấy dây thép treo cái thau làm bếp, rút tranh trên mái chéo nhà nấu được nồi cơm nửa chín, nửa nhão; mấy ngày sau cả nhà phải nhai gạo sống. Quan trọng hơn vẫn là nước uống, đó là nước mưa hứng từ mái tranh. Đến ngày thứ tư, thứ năm gì đó thì có máy bay trực thăng bay đến thả đồ cứu trợ. Cha tôi giở mái tranh leo lên đứng trên mái nhà, huơ cái áo trắng lên kêu cứu. Trong nhiều gói bánh mì và nước đóng chai thả xuống bị dòng nước tranh cướp cuốn trôi, cha tôi dùng cây sào dài đưa ngang mặt nước, may mắn tranh được một gói, để cả gia đình tôi gồm năm người cầm hơi và giành lại sự sống đận ấy. Cuộc đời con người có những thực tế khắc nghiệt như thế, đừng nên… trải nghiệm!
Không chỉ là Gò Nổi hay Điện Bàn, mà cả miền Trung lần ấy, đều ngập trong biển nước. Tôi có người bạn là nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, quê Đại Lộc, Quảng Nam, cùng cỡ tuổi anh em mình, không biết anh Phương đã từng đọc thơ của Hạnh chưa? "Cái làng ấy ra đi cùng tôi/ Mà tôi nào hay biết/ Chỉ mỗi điều giữa câu thơ tôi viết/ Con sông quê bóng núi cứ chập chờn/ Xưa tôi sống trong làng/ Giờ làng sống trong tôi" (Làng). Nghe tôi nhắc đến trận lụt năm ấy, tác giả của những câu thơ trên kể rằng cả nhà anh ngày hôm trước xuôi thuyền theo sông Thu Bồn, về đến cầu Câu Lâu, neo thuyền nằm ngủ, nửa đêm nước lớn ngập thuyền, may được bà con sống bên bờ sông bơi ra cứu sống, nếu không cả nhà anh gần chục con người chìm sâu dưới lòng sông năm đó rồi.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG: Quê tôi năm đó cũng bi đát chẳng khác nào quê anh. Lúc đó tôi mới chín tuổi. Một buổi chiều tháng 10 âm lịch, đi học về thấy nước dâng lên từ từ, xắn quần xách dép lội nước vào nhà. Lúc đầu nước tràn qua vườn, lên mé sân, đêm ngủ dậy thấy nước ngập cả Quốc lộ 1 trước nhà rồi trườn theo bậc tam cấp lên nền nhà. Nhà tôi thuộc loại nền cao, mấy năm trước đó, mùa lụt, nước chỉ đến góc sân rồi rút. Năm nào cũng vậy, tuổi thơ mong nước lụt để dầm chân nghịch nước, xem người ta đánh vó bắt cá dưới chân cầu. Năm ấy không ngờ nước lớn nhanh và không biết ngừng lại. Ngoài vườn, đu đủ, mãng cầu, vú sữa ngập dần đến cả tàn lá.
Nhà tôi lúc ấy chỉ có phụ nữ và thiếu niên. Hàng xóm ở cách xa vài khu vườn, nhà ai nấy lo, chỉ gọi với sang hỏi thăm chứ không dám lội nước qua lại mà tiếp tế thức ăn. Bà ngoại, má và các dì tôi bắc bếp trên bộ phản gỗ nấu ăn, củi ướt khói un cay mắt, phải chuyển qua nấu bếp dầu. Cậu tôi và tôi lo chuyển sách vở lên trần nhà. Bữa cơm ngày lụt chỉ có cá chuồn khô, đu đủ xanh luộc chấm mắm cái mà ngon thiệt là ngon.
Hôm sau, tự dưng nước ngưng chảy, trời lặng gió. Chúng tôi kê giường lên cao cho bà ngoại nằm. Ăn tối xong cả nhà ngồi co ro quanh ngọn đèn dầu. Đến gần khuya, một trận mưa dữ dội bỗng ập đến, gió thổi hun hút rồi mạnh dần thành bão thốc vào mái nhà. Ngoài vườn mấy cây dừa oằn mình chịu trận. Tiếng người trong xóm réo gọi nhắc nhau chống bão.
Nước chảy ào ạt, ngập qua bệ cửa sổ, chỉ cách giường bà tôi vài phân. Nhà tôi mái lợp tranh nhưng trần nhà đắp bằng đất, trên đó chứa đủ các món đồ lưu cữu nhiều năm: các khung gỗ chằm nón lá, những tấm màn sáo che cửa sổ, chiếc xe đạp cũ, cuốc xẻng, nong nia... Hồi nhỏ mỗi khi chơi trốn tìm với các bạn, tôi vẫn trèo lên nấp ở đây. Cậu tôi bắc thang nâng bà tôi leo lên mái đất, rồi cả nhà lần lượt lên theo. Mái đất cách mái tranh chỉ năm tấc, bảy người nằm ép giữa hai lớp mái. Mùi bồ hóng, phân gián, phân chuột nồng nặc át cả mùi mưa đất ẩm. Trong đêm, cả nhà bảo nhau ráng chờ trời sáng. Bên ngoài tiếng cây cối, súc vật trôi ào ạt trong gió, va vào làm mái nhà tôi rung lên. Có cả tiếng người kêu khóc trong ngôi nhà tranh bị bão cuốn trôi trong nước lũ.
Tảng sáng, trời mờ mờ, cậu tôi gỡ mấy tấm tranh lợp mái, thò đầu nhìn ra ngoài, la hét kêu cứu hàng xóm. Không có lời đáp lại, cả xóm năm ngôi nhà nằm im vắng như thiếp ngủ. Rồi một giờ sau, một chiếc ghe bầu với hai người thanh niên mặc áo tơi lướt đi trong mưa gió, tấp vào mái nhà tôi. Hai chú lần lượt kéo cả gia đình tôi lên ghe. Cả 9 người trên chiếc ghe nhỏ, nước mấp mé thành, sóng bềnh bồng, cậu cháu tôi dùng lon sữa bò tát nước ra ngoài. Ở nông thôn mà cả gia đình tôi không ai biết bơi. Bà tôi lầm rầm cầu nguyện Phật độ trì tai qua nạn khỏi. Trùm lên chiếc áo mưa, tôi hé mắt nhìn ra cánh đồng Vĩnh Phú mênh mông nước, cây cầu sắt hằng ngày tôi qua lại đến trường chìm hẳn không thấy dấu tích. Lúc ở nhà tuy lo sợ nhưng không thấy mối nguy cận kề như khi đi ghe tránh lụt. Hai chú chèo ghe cật lực đưa cả nhà tôi lên xóm Vĩnh Thuận, khi ghe cập vào ghềnh đá dưới chân đồi, nơi có xóm nhà bà con họ Lê phía dưới chùa Linh Sơn, cả nhà mới biết mình thoát chết.
PHẠM PHÚ PHONG: Hồi đó tôi còn nhỏ, không còn nhớ quê tôi có phải là nơi bị tàn phá nặng nề nhất miền Trung hay không, nhưng trận lụt đã mang đi gần hết sự sống của thiên nhiên, cây cỏ, động vật ở một miền quê tương đối trù phú trước đó. Nhà nào cũng bị thiệt hại nặng nề. Nhà tôi 5 con bò, 1 con trâu, cùng với heo, gà, lúa gạo bị cuốn trôi. Sau lụt, đúng là không còn một hạt thóc để làm giống. May mắn, cả xóm không có thiệt hại về người. Nhưng sau lụt, lại chống chọi với bệnh tật, bị lây nhiễm khi phải dọn xác động vật còn nằm lại các bụi tre, bờ bãi! Sau này lớn lên, tìm hiểu mới biết trong trận lụt năm Giáp Thìn địa phương chịu hậu quả nặng nề nhất là làng Đông An, xã Ninh Phước, huyện Nông Sơn có đến gần 1.500 người chết và mất tích.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG: Những ngày tránh lụt ở nhà một người anh họ của ngoại tôi dưới chân đồi, gia đình tôi được bà con giúp đỡ chu đáo, nhưng cả nhà nôn nóng mong ngày trở về. Bà tôi lo nhất là vựa lúa còn lúa giống và lúa ăn đủ dùng cho hết mùa đông. Nước vừa rút là cả gia đình đùm túm lội ruộng về nhà. Khu vườn xơ xác, bùn ngập đến mắt cá. Bàn ghế, giường tủ ngấm nước hư hại. Và điều linh cảm của bà tôi thành sự thật: nước ngấm, sóng vỗ đã làm vỡ vựa lúa nhà tôi, lúa trôi hết ra ngoài, lẫn trong bùn đất, cây cỏ, cả tháng sau mầm lúa mọc lên xanh từng vạt trong sân vườn. Hàng xóm cũng rơi vào tình cảnh tương tự. Nhưng xóm tôi còn may mắn, mất lúa, heo gà nhưng người còn, không ai chết hay bị thương như người ở vùng gần biển. Đúng là còn người thì còn của, "còn da lông mọc, còn chồi nẩy cây".
PHẠM PHÚ PHONG: Anh nhắc làm tôi nhớ, năm nay có hai dấu mốc tròn: Giáp Thìn và Giáp Ngọ. Nếu tính từ trận lụt năm ấy thì nay đã tròn 60 năm. Nếu tính ngày chia đôi đất nước theo Hiệp định Genève thì nay đã là 70 năm. Ông bà nội tôi có 3 người con trai thì cả 3 đều đi theo kháng chiến. Khi đất nước chia đôi, bác và chú tôi tập kết ra miền Bắc, cha tôi được tổ chức phân công ở lại hoạt động bí mật; hơn nữa, cha tôi còn lo chuyện hiếu đạo, 3 người con trai phải có một người ở lại để chăm sóc ông bà tôi khi tuổi đã già. Sau chiến tranh, chỉ một mình chú tôi trở về. Bác tôi, công tác ở Bộ Ngoại thương, trong ông lúc nào cũng nung nấu khát vọng trở về quê hương, nhất là lo cho vợ và hai đứa con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Sau nhiều lần đề đạt nguyện vọng, năm 1962, ông trở về quê phụ trách kinh tài cho tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, bị phục kích và hy sinh tại Nam Yên, Hòa Vang năm 1964. Cái chết của bác tôi kéo theo mấy người du kích hy sinh nữa: khi rút đi, lính còn gài lại lựu đạn, du kích về đưa xác đi chôn, lựu đạn nổ, chết thêm mấy người! Còn cái lo của bác tôi cũng không tránh khỏi: bác gái tôi hoạt động cho đường dây quân báo nhưng hai anh tôi đều bị bắt lính và đều chết trận. Cha tôi hoạt động cách mạng, nhiều lần thoát chết qua các đợt khủng bố, thủ tiêu nhưng đến năm 1968 cũng ngã xuống trong một trận chống càn. Cha mất khi tôi ở xa, nghe tin, tôi vẫn cầu mong có một sự nhầm lẫn nào đó. Cho đến năm 1975, trở về quê, gặp lại mẹ, tôi mới cay đắng nhận ra đó là sự thật!
Những người ra đi 70 năm trước mơ ước về một đất nước thanh bình, đoàn tụ, phát triển. Hầu hết thế hệ đó đã nằm xuống. Thế hệ chúng tôi cũng đã làm xong việc của mình. Giờ đây trọng trách và hy vọng thuộc về thế hệ trẻ".
(Phạm Phú Phong)
Năm 1982, xã có chủ trương quy tập mộ các liệt sĩ vào nghĩa trang. Tôi khoác ba-lô, cùng với người anh họ, chạy xe máy dọc theo sông Trường Định lên Nam Yên, đào mộ bác tôi, gói xương mang về. Cùng đợt cha tôi chết có đến 7-8 người, trong đó có nhiều người là dân thường, không được công nhận liệt sĩ, mà người chôn cũng đã chết rồi, mẹ tôi nhận ra xác cha tôi qua cái lược bằng vỏ bom B.52 ông hay chải đầu và cây bút bi hay găm trên túi áo. Trước đó, hai anh trai của tôi đang học ở Sài Gòn, cha tôi năm lần bảy lượt nhắn tin bảo về tham gia công tác, cả hai trở về và hy sinh vào hai năm 1967, 1968 trong nỗi đau đớn của gia đình tôi. Vậy là hai anh ruột của tôi và hai anh con của bác tôi đều ngã xuống ở hai bên chiến tuyến. Đúng như ai đó đã nói, đời mỗi con người cũng chỉ như một chiếc lá, bị cuốn trôi trong cơn lũ đại hồng thủy hoặc trong bão tố của chiến tranh mà lịch sử đất nước từng trải qua, đều đau xót cả thôi. Giữa hai cơn lũ ấy, bà nội tôi, mẹ tôi và bác gái là những người chịu đựng nhiều đau khổ hơn ai hết.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG: Cùng cảnh ngộ với gia đình anh, 70 năm trước, gia đình tôi cũng cắt chia như đất nước mình. Ông nội tôi cùng hai người con trai và một người con rể đều đi tập kết, hòa bình chỉ mình ông tôi trở về với chiếc va-li sờn cũ, hai con ruột và con rể nằm lại trên đất lạ. Ông ngoại tôi cũng đi tập kết cùng hai người con trai và hai người con rể, năm 1961 ông bị bệnh trọng qua đời, ngày hòa bình gia đình mới chuyển hài cốt ông từ Nghĩa trang Văn Điển (Hà Nội) về Mộ Đức. Cha tôi về Nam theo đường Trường Sơn từ năm 1959, đơn vị chuyển quân lên Tây Nguyên, đến 1965 mới về đồng bằng thăm gia đình. Nói dại, nếu cả nhà chết trong trận lụt năm 1964, thì người trở về biết gặp ai. Rồi cha tôi cũng ngã xuống trong một trận đánh năm 1967 ở Sơn Tịnh với đám lính Đại Hàn tàn bạo, được người dân an táng trong vườn chùa, ngày hòa bình mới về an nghỉ ở làng quê. Má tôi, dì tôi, cô tôi như bao chinh phụ khác đã thành góa phụ. Hòa bình, hai cậu tôi trở về gặp lại mẹ và các em nghe kể chuyện quê hương, gia đình; cả nhà ngồi khóc trên bậc thềm ngày cũ, nơi năm nào nước lụt dâng vô nhà.
PHẠM PHÚ PHONG: Sau ngày hòa bình, hy vọng tai trời ách nước giảm bớt, không ngờ thiên nhiên bị tàn phá ngày càng nhiều, bão lớn, nước biển dâng, lụt lội, lở đất, nhiễm mặn khắp cả nước. Con người tàn phá thiên nhiên cũng là hủy hoại cuộc sống của chính mình. Lẽ ra con người phải sống thuận theo tự nhiên và thích ứng với tự nhiên chứ không phải khai thác tận cùng thiên nhiên để phục vụ nhu cầu trước mắt. Sự hủy hoại hiện nay còn khủng khiếp hơn rất nhiều so với chiến tranh. Cứ xem những trận mưa lũ, lở đất, sạt đường mấy năm gần đây thì rõ.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG: Mỗi lần nhớ lại chuyện cũ, tôi lại hát thầm mấy câu ca của Phạm Đình Chương: "Quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn. Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm…". Lụt lội là thảm họa thiên nhiên, nhưng bây giờ còn có tác động tiêu cực từ chính con người. Hủy hoại môi trường sinh thái là một thảm nạn toàn cầu, ở nước ta lại ngày càng gay gắt. Bảo vệ môi trường là một cam kết lớn của nhân loại. Nhân loại phải sáng suốt khi đụng vào rừng, xây dựng các con đập, ngăn chặn dòng chảy tự nhiên của sông ngòi, phát thải khí nhà kính...
TP Hồ Chí Minh, tháng 1-2024
Hòa bình, hai cậu tôi trở về trở về gặp lại mẹ và các em, nghe kể chuyện quê hương, gia đình; cả nhà ngồi khóc trên bậc thềm ngày cũ, nơi năm nào nước lụt dâng vô nhà.
(H.N.P)
Nguồn NLĐ: https://nld.com.vn/giap-thin-60-nam-truoc-tu-trong-ky-uc-vong-ve-196240205165808889.htm