Giấy hợp tác làm ăn hay hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất?
Xử lần đầu, 2 cấp tòa đều cho rằng đây là giấy hợp tác làm ăn nên buộc bị đơn trả đất. Tuy nhiên sau khi cấp giám đốc thẩm hủy án, xử sơ thẩm lần 2, tòa cho rằng giấy cam kết hợp tác làm ăn là chuyển nhượng đất…
Hôm nay (24-4), TAND tỉnh Đắk Lắk sẽ đưa ra xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp hợp đồng giao khoán, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa nguyên đơn ông Đinh Văn Hoành với bị đơn là ông T (cùng ngụ tại TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk).

Ông Đinh Văn Hoành tại thửa đất tranh chấp. Ảnh: YC
Ký giấy cam kết hợp tác kinh tế sau ra tranh chấp đất
Theo đơn khởi kiện, năm 1993, ông Đinh Văn Hoành được UBND huyện CưMgar cấp cho 9,8ha đất để làm kinh tế vườn. Đến năm 1994 thì thửa đất này được UBND huyện Cư Mgar cấp giấy chứng nhận.
Sau đó, ông Hoành ký hợp đồng liên kết với công ty cao su tỉnh Đắk Lắk (công ty cao su) để trồng cây cao su…
Ngày 27-5-1994, ông Hoành và ông T ký giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cây cao su. Hai bên thỏa thuận, mỗi người chăm sóc và khai thác mủ cao su 50% diện tích. Ông T đã đưa cho ông Hoành 5 chỉ vàng, đây là ½ tiền công của ông Hoành đầu tư thêm trong năm 1993 (xây bờ rào, bù thêm công đào hố, trồng cây theo định mức...).
Hai bên thỏa thuận mọi công việc và quy trình kỹ thuật về cây cao su thì ông T thực hiện đầy đủ theo sự chỉ đạo của ông Hoành. Ông T có trách nhiệm bảo vệ cây khỏi trâu bò, sau này khai thác phần của ai thì người đó hưởng, còn công tác phí và quản lý phí trích lại tiền mặt cho ông Hoành là từ 5 – 7% trong số tiền mặt công ty cao su đầu tư...
Sau khi ký kết hợp đồng, ông T không làm mà cho ông vợ chồng ông V (em gái vợ ông T) canh tác và quản lý.
Năm 1994, ông V làm thêm căn nhà tạm bằng ván để canh giữ trâu bò. Do vợ chồng ông V có hoàn cảnh khó khăn nên ông Hoành nói sau này sẽ vừa bán vừa cho vợ chồng ông V khoảng 1 ha đất, chỉ lấy 60 triệu đồng. Sau đó, vợ chồng ông V đã xây nhà cấp 4.
Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ với công ty cao su như hợp đồng (năm 2014), ông Hoành đã rút sổ hồng ở công ty về và yêu cầu ông T thanh lý hợp đồng, trả lại đất và cây cao su. Khi đó, ông T nói vợ chồng ông V còn khó khăn nên tạo điều kiện cho em ông T làm ăn ít năm.
Nay, ông Hoành yêu cầu ông T có nghĩa vụ thanh lý hợp đồng hợp tác làm cao su, đồng thời trả lại đất cho ông Hoành nhưng không được.
Phía ông T và vợ chồng ông V lại cho rằng, năm 1994 ông Hoành đã bán lại cho ông T 50% diện tích đất trồng cây cao su. Lúc đó, do không có điều kiện làm nên ông T đã chuyển giao lại cho vợ chồng ông V. Tuy nhiên, do sổ hồng đang thế chấp ở công ty cao su nên hai bên chỉ lập giấy cam kết hợp kinh tế làm cao su, giá chuyển nhượng là 5 chỉ vàng, số tiền 60 triệu đồng là chi phí làm sổ hồng…

Ông Đinh Văn Hoành không đồng tình với bản án sơ thẩm lần 2. Ảnh: YC
2 lần thắng kiện...
Xử sơ thẩm tháng 1-2022, TAND huyện CưMgar cho rằng toàn bộ diện tích đất có nguồn gốc nhà nước cấp cho ông Hoành và được cấp giấy chứng nhận năm 1994. Đến năm 2017, ông Hoành cấp đổi đổi lại sổ hồng nhưng ông T và vợ chồng ông V không có ý kiến gì. Vì vậy, cần buộc vợ chồng ông V có nghĩa vụ trả lại một phần diện tích cho ông Hoành.
Đối với diện tích 1ha mà ông Hoành đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông V, do giữa các bên chỉ thỏa thuận miệng với nhau nên không xác định được vị trí đất cụ thể. Vì vậy cần căn cứ quan điểm của ông Hoành để giao phần đất đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông V.
Vợ chồng ông V cho rằng diện tích đất đang tranh chấp là do ông bà nhận chuyển nhượng của ông T, đã được ông Hoành đã đồng ý. Tuy nhiên ông Hoành chỉ thừa nhận có chuyển nhượng 1ha không chứ không phải toàn bộ diện tích đất này. Quá trình giải quyết, vợ chồng ông V không đưa ra được chứng cứ gì để chứng minh cho yêu cầu của mình, ngoài cam kết về việc giao khoán được ký kết giữa ông T và ông Hoành. Những người làm chứng cũng chỉ biết việc vợ chồng ông V canh tác trên thửa đất, còn nguồn gốc như thế nào họ không nắm được…
Xét theo thời hạn của cam kết (hợp đồng hợp đồng giao khoán) mà ông T ký với ông Hoành thì thời hạn hết cam kết giữa hai bên là năm 2014, thời điểm thực hiện xong nghĩa vụ với công ty cao su. Vì vậy, HĐXX cho rằng không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu độc lập của vợ chồng ông V.
Từ đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoành, buộc ông vợ chồng ông V trả lại một phần diện tích đất (hơn 3ha) cho ông Hoành. Ông Hoành trả lại giá trị cây cao su. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện độc lập của vợ chồng ông V, công nhận hợp đồng chuyển nhượng 1ha giữa ông Hoành và vợ chồng ông V….
Sau phiên sơ thẩm, vợ chồng ông V kháng cáo.
Xử phúc thẩm tháng 5-2022, TAND tỉnh Đắk Lắk cho rằng ông Hoành và ông T có ký kết hợp đồng hợp tác kinh tế làm cây cao su với nhau.
Ông T và ông V cho rằng ông Hoành đã chuyển nhượng cho ông T với giá 5 chỉ vàng. Vợ chồng ông V là người giao 5 chỉ vàng cho ông Hoành nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông V.
Tuy nhiên, cấp phúc thẩm nhận thấy việc tính toán có sai sót về phần số lượng cây cao nên tòa sửa về phần số lượng cây cao su và tách phần yêu cầu thanh lý số lượng cây cao su bằng 1 vụ án khác...
Sau đó, Viện trưởng VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị hủy cả 2 bản án. Tháng 12-2022, TAND Cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận kháng nghị này.
... sau lại thua kiện và lập luận của tòa
Xử sơ thẩm lần 2 vào tháng 1-2025, TAND huyện CưMgar tuyên ngược lại với bản án sơ thẩm lần đầu, không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Hoành, tuyên bố giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cây cao su vô hiệu. Công nhận việc chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Hoành và vợ chồng ông V...
HĐXX sơ thẩm lần 2 cho rằng giấy cam kết hợp tác kinh tế lập giữa ông Hoành và ông T là ông Hoành chuyển nhượng 4,9ha đất cho vợ chồng ông V với giá 5 chỉ vàng.
Về hình thức, các bên không xác lập hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền là vi phạm. Tuy nhiên, sau khi nhận đất, vợ chồng ông V trồng xen canh các loại cây trồng khác và làm nhà gỗ để ở nhưng ông Hoành không ý kiến gì.
Vì vậy, theo quy định tại tiểu mục 2.3 mục 2 Phần II Nghị quyết số 02/2004 của HĐTP TAND Tối cao (về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình) thì giao dịch chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất giữa ông Hoành và vợ chồng ông V được công nhận… Giấy cam kết hợp tác làm ăn là vô hiệu do giả tạo nhằm che dấu cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất…
Ông Hoành kháng cáo bản án sơ thẩm lần 2 vì cho rằng tòa tuyên không có căn cứ.
Giấy hợp tác làm ăn sao tòa nói giấy bán đất?
Theo ông Hoành, giấy cam kết ghi rõ là hợp tác kinh tế làm cao su trên cơ sở ông Hoành có hợp đồng kinh tế trồng và chăm sóc cây cao su với công ty cao su, hoàn toàn không có nội dung chuyển nhượng đất. Ở đây, ông Hoành giao khoán cho ông T để chăm sóc và đầu tư thêm vào phần công ty cao su cấp vốn, cũng như nhận được lợi ích từ hiệu quả kinh tế của vườn cây.
Giấy cam kết ghi rõ 5 chỉ vàng là tiền ông T gửi lại một nửa tiền đầu tư cho ông Hoành. Thế nhưng tòa lại cho rằng 5 chỉ vàng là tiền chuyển nhượng đất dù không có câu nào trong giấy cam kết nói đây là tiền mua đất.
Cạnh đó, việc hợp tác làm ăn là hợp tác thật. Bằng chứng là ông Hoành đã ký hợp tác với công ty cao su vào các năm 1993, 1996, 2003, có sự thỏa thuận phương án đầu tư, chia lợi nhuận, phân công công việc… với ông T và ông V. Ông T đã trả 5 chỉ vàng tiền công của ông Hoành đầu tư thêm. Nếu chuyển nhượng đất thì tại sao không có bàn giao đất dứt điểm, giá chuyển nhượng không phù hợp với thị trường (vì thời điểm đó 4,9 ha đất có giá khoảng 8 cây vàng)?
Cạnh đó, theo ông Hoành, tòa căn cứ vào tiểu mục 2.3 mục 2 Phần II Nghị quyết số 02/2004 (về điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng) để cho rằng giữa ông Hoành và vợ chồng ông V tồn tại giao dịch chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất là không đúng. Bởi đây là giấy cam kết làm ăn chứ không phải hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ.
"Tòa cho rằng đây là hợp đồng dù không được công chứng nhưng ông V đã trồng cây lâu năm, làm nhà gỗ,... và tôi không có ý kiến gì nên công nhận là vô lý. Bởi theo giấy cam kết và trên thực tế đã thể hiện rõ thỏa thuận giữa các bên là vợ chồng ông V chăm sóc cây do tôi trồng năm 1993. Việc xây nhà là để tiện cho việc chăm sóc cây và tôi cũng đồng ý cho 1ha để xây nhà nên tôi đương nhiên không phản đối", ông Hoành nói.