Gieo chữ miền biên viễn: Hành trình của lòng kiên định và yêu thương- Bài 1: Ánh sáng từ con chữ
Nhiều năm qua, các chương trình của Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục và chính quyền địa phương đã góp phần cải thiện đáng kể điều kiện dạy – học ở vùng biên. Trường lớp được xây kiên cố hơn, học sinh có bữa ăn bán trú, giáo viên có nhà công vụ. Nhưng vẫn còn những điểm trường xa xôi với điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, lớp học 'gió lùa' qua khung cửa, thầy cô vẫn phải 'cõng' từng viên phấn, từng bộ sách lên non.
18 năm đứng trên bục giảng và cũng ngần ấy năm gõ cửa từng nhà, vận động người dân đưa con em tới trường, động viên học trò tới lớp, cô giáo Nguyễn Thị Ánh Nguyệt (Trường Tiểu học và THCS Nguyễn Văn Trỗi, xã Ia Mơ, tỉnh Gia Lai) bảo điều cô mong mỏi nhất là làm sao để đời sống của đồng bào dân tộc bớt khổ, học sinh được đến trường với đầy đủ quần áo ấm, sách vở và những bữa ăn no, yên tâm “đi kiếm con chữ”.
Giáo dục vùng khó: Thương mình một, thương học trò mười
Sinh ra ở một vùng quê nghèo của tỉnh Bình Định (cũ), cô học trò Ánh Nguyệt chọn học ngành sư phạm để vừa đỡ đần khoản học phí cho gia đình, vừa hiện thực hóa ước mơ từ thuở nhỏ là được trở thành người giáo viên nhân dân. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Định năm 2004, cô Nguyệt lập gia đình ở quê nhà Bình Định sau đó năm 2007, trúng tuyển và đi dạy tại tỉnh Gia Lai (cũ). Nhớ lại những ngày tháng đầu tiên gắn bó với bảng đen, phấn trắng, cô Nguyệt kể khó khăn nhất không phải là dạy sao để các em hiểu bài, biết đọc, biết viết mà là làm sao để có học sinh dạy! Phần lớn đồng bào trong xã là người dân tộc thiểu số Gia Rai, đời sống gắn bó chặt chẽ với nương rẫy, rừng núi. Cái ăn, cái mặc còn thiếu nên dù được Đảng, Nhà nước tuyên truyền, cán bộ, giáo viên thường xuyên đến từng nhà vận động đưa con ra lớp nhưng có những thời điểm, cha mẹ phải vào nương rẫy cả tháng nên mang luôn cả gia đình đi theo.

Cô giáo Nguyệt với kinh nghiệm 18 năm đứng lớp, chủ yếu là dạy lớp 1. Ảnh: NVCC.
“Thương các em lắm mà chỉ có thể chờ khi hoàn thành mùa vụ, gia đình họ trở về thì lại đến vận động đưa trò ra lớp. Cô dốc sức kèm cặp để các em đuổi kịp chúng bạn, hoàn thành chương trình học” cô Nguyệt nhớ lại và cho biết lúc này, gần như phải “dạy lại từ đầu” vì học trò của cô là lớp 1, xa lớp lâu nên khi trở lại kiến thức rơi rụng, gần như không nhớ được bao nhiêu.
Đặc biệt, thời điểm đó 100% học sinh là người dân tộc thiểu số Gia Rai, đa số các em nói tiếng Gia Rai nên để dạy được học trò, cô Nguyệt phải tìm đến người lớn trong làng để học tiếng Gia Rai. Những lớp học “song ngữ” với bàn ghế đơn sơ, tường vôi vữa tróc lở còn cửa lớp phải quấn bằng dây gai để… đến giờ vẫn khiến cô Nguyệt nhớ như in. Xót xa hơn là những học sinh đến trường ngoài bộ quần áo mặc trên người còn sách vở, đồ dùng học tập đều không có, giáo viên vừa xin nhà trường hỗ trợ, vừa chắt bóp từ đồng lương có hạn để mua sắm thêm cho các em.
Đường đi hồi đó khó lắm. Trời nắng còn đỡ, trời mưa thì lầy lội, trơn trượt, có xe đạp, rồi sau này là xe máy cũng không thể đi qua, chỉ có thể dắt bộ. Nhưng mình là người lớn, đi lại còn vất vả như thế. Các em đến được lớp cũng phải băng rừng, vượt suối muôn vàn khó khăn nên dù nhiều lúc mệt mỏi nhưng chưa bao giờ tôi thấy nản lòng, muốn buông xuôi vì tôi hiểu, các em cần mình. Chỉ có tri thức mới giúp các em có được tương lai tươi sáng, đỡ vất vả hơn nên chúng tôi luôn tự nhủ phải thật bình tĩnh, kiên trì để giảng dạy cho các em từ những bài học trong sách vở, những kiến thức trong cuộc sống” – cô giáo Nguyễn Thị Ánh Nguyệt chia sẻ.
Gỡ khó từng ngày
Năm học 2025-2026 này, cô Nguyệt đang dạy lớp 2 tại điểm trường lẻ của Trường Tiểu học và THCS Nguyễn Văn Trỗi, xã Ia Mơ, tỉnh Gia Lai với 27 học sinh. Đời sống của người dân bây giờ so với những ngày đầu cô Nguyệt về đây công tác đã cải thiện hơn rất nhiều nhưng nhìn chung so với những vùng đồng bằng khác, đời sống kinh tế người dân vẫn còn nhiều khó khăn. Nhiều gia đình chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình. Các em đến trường còn nhiều thiếu thốn về trang phục, đồ dùng học tập.... Con em còn theo bố mẹ đi làm hoặc giữ em không được đến trường chuyên cần gây gián đoạn việc học. Bên cạnh đó, học trò ở đây vô cùng hiếu động, quen nếp sống tự nhiên, ít được rèn giữa từ gia đình nên đến lớp các em cũng vẫn rất hồn nhiên. Cô Nguyệt lấy ví dụ có em đến lớp sáng chưa kịp ăn gì, đến giờ ra chơi em chạy về nhà để ăn rồi có khi… ở nhà luôn. Cô giáo phải tranh thủ giờ nghỉ để đến nhà động viên các em trở về trường đi học tiếp.

Phần lớn học sinh trong lớp cô Nguyệt dạy là người dân tộc thiểu số Gia Rai. Ảnh: NVCC.
Nhiều kĩ năng, nề nếp các em chưa được rèn giũa nên việc xây dựng nề nếp, thói quen cho các em những buổi đầu rất khó khăn. Việc tiếp thu kiến thức của học sinh còn chậm, khả năng giao tiếp Tiếng Việt của các em cũng hết sức hạn chế, giáo viên khó lòng truyền tải hết được kiến thức như mong muốn đến các em. Vì vậy, tại ngôi trường cô Nguyệt đang dạy, cô và các đồng nghiệp hàng tuần đều dành 2 tiết cố định để kèm cặp thêm cho các em học sinh. Cuối mỗi buổi học hay giờ ra chơi, cô đều sát sao bài vở tới từng học sinh để xem các em đã hiểu bài chưa, còn chữ nào chưa biết viết, đọc còn chậm… để giúp các em tiến bộ hơn.
Tôn vinh và tri ân các thầy giáo, cô giáo ở 248 xã biên giới, đặc khu cùng với các giáo viên mang quân hàm xanh, Chương trình "Chia sẻ cùng thầy cô" do Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tập đoàn Thiên Long tổ chức sau 10 năm triển khai đã tôn vinh 576 thầy cô giáo tiêu biểu. Đó là những con người bình dị mà cao quý, ngày ngày lặng lẽ gieo chữ, thắp sáng tương lai cho học trò. Họ chính là những tấm gương sáng về tinh thần hy sinh, tận tụy và khát vọng cống hiến để thế hệ trẻ noi theo.
Hiện cô Nguyệt đang tham gia dạy lớp học xóa mù cho bà con trên địa bàn xã Ia Mơ. Cứ tối thứ 2, 4, 6 hàng tuần, lớp học lại sáng đèn thu hút bà con tới học chữ. “Lớp có cả người lớn tuổi và thanh niên, được cán bộ tới tận nhà tuyên truyền, vận động tham gia lớp học. Vì đều là người đã đi làm nên nhiều khi buổi tối về nhà, họ mệt, không muốn đến lớp nên chúng tôi xác định vừa động viên, vừa kiên trì “cầm tay viết chữ” với từng học viên. Nếu ai nghỉ, buổi sau giáo viên sẽ dạy bù thêm để kiến thức không bị ngắt quãng. Rất vui là sau khi vượt qua những khó khăn, rào cản ban đầu, việc học vào nền nếp, người dân thấy được lợi ích của việc biết đọc chữ, biết viết tên mình,… nên rủ nhau đến lớp đều đặn hơn” – cô Nguyệt kể và cho biết, một học viên còn tâm sự bạn ấy rất thích hát, từ giờ có thể hát karaoke rồi.

Lớp học xóa mù chữ do cô Nguyệt cùng các đồng nghiệp giảng dạy. Ảnh: NVCC.
Một niềm vui đến từ những lớp học xóa mù chữ chính là từ những người tham gia lớp học buổi đầu đã và đang lan tỏa kiến thức đến với những người thân, bạn bè và hàng xóm chưa được học. Nhiều người đi học buổi đầu mang con đi theo, sau rủ cả người nhà và bạn bè đến học cùng. Họ hiểu hơn về tầm quan trọng của việc học tập nên ngày càng quan tâm đến việc học của con em mình, động viên con đi học đầy đủ, có lên nương rẫy cũng không mang theo con đi nữa nên học trò của cô Nguyệt bây giờ ít nghỉ dài ngày như trước đây.
Nhiều chuyến đò đã đi qua, cô Nguyệt nhớ nhất một học sinh có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Khi vào lớp 1, em đó tiếp thu bài chậm hơn các bạn khác một chút. Dù rất nỗ lực kèm cặp và trao đổi với gia đình nhưng cha mẹ bận mưu sinh, không quan tâm được nhiều đến em nên sau vài tháng đến trường, em đó nghỉ học. Dù vậy, cô Nguyệt vẫn rất chú ý đến em và nhiều lần gặp, tỉ tê tâm sự rủ em trở lại lớp học. Đến gần 2 năm sau khi nghỉ, cô Nguyệt thấy em đến trường, đứng ở cửa lớp nhìn cô giảng bài, cô đã ra động viên em đi học lại. “Giờ cậu bé ấy đang học cấp 2 rồi, em tự lập và chăm chỉ học tập, tôi rất vui khi nhìn thấy học trò của mình đang trưởng thành mỗi ngày” – nữ giáo viên vùng biên xúc động chia sẻ.
Nỗ lực từng ngày chỉ mong góp phần sức lực nhỏ bé của mình để đem ánh sáng tri thức tới miền biên viễn, cô Nguyệt bảo cô không có đề xuất, mong mỏi gì đối với chính sách cho giáo viên vùng biên bởi so với đời sống của người dân nơi đây, khó khăn của cô chẳng đáng kể bao nhiêu. “Vất vả nhất là khi con còn nhỏ, chồng công tác ở xa, tôi không có điều kiện chăm sóc nên phải gửi con về quê ở cùng ông bà từ khi 14 tháng tuổi. Suốt thời gian dài, tôi vừa phải sắp xếp công việc chuyên môn, vừa tranh thủ thời gian nghỉ về thăm con. Quãng đường gần 300km, chuyển nhiều lần xe, đường đi xóc nảy, thời gian ở được với con có khi còn ít hơn thời gian di chuyển… Dù thiếu vắng tình thương và sự chăm sóc hàng ngày của cha mẹ nhưng nhờ ông bà giúp đỡ, con sớm hiểu chuyện, tự lập nên luôn cố gắng học tập. Nay con đang học năm thứ 2 đại học. Con tự chọn học trường quân đội với mong muốn vừa được rèn luyện về sức khỏe, về kỷ luật, sự kiên trì trong môi trường quân ngũ và được cống hiến cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tôi rất mừng” – cô Nguyệt nói.

Cô Nguyệt (người đứng) đang báo cáo biện pháp thi giáo viên dạy giỏi năm học 2024-2025. Ảnh: NVCC.
Trong ngôi nhà gỗ đơn sơ dựng ngay gần trường học, cô giáo Nguyệt đang sống cùng chồng (hiện đang là bảo vệ của Trường Tiểu học và THCS Nguyễn Văn Trỗi) và con gái. Cuộc sống bình yên và giản dị nhưng tràn đầy hạnh phúc khi mỗi ngày làm công việc mình yêu thích, được gần gũi với những học trò hồn nhiên, ngây thơ. Từng nét chữ, từng con số, nữ giáo viên vùng biên cảm nhận rõ niềm vui khi được góp sức mở đường cho tương lai tươi sáng của những đứa trẻ vùng biên và người dân nơi đây. Càng thêm yêu và tự hào về nghề giáo viên, cô Nguyệt bảo mình luôn trân trọng cơ hội được đồng hành cùng học trò trên con đường trưởng thành như chính tâm niệm của cô khi quyết định gắn bó với bảng đen, phấn trắng, với ngôi trường vùng biên từ những ngày khó khăn chập chùng vẫn kiên cường thắp sáng ước mơ con chữ.
(còn nữa)
Là 1 trong 80 thầy cô tiêu biểu, xuất sắc được tuyên dương trong chương trình "Chia sẻ cùng thầy cô" năm 2025, cô giáo Nguyễn Thị Ánh Nguyệt rất vui và xúc động vì những nỗ lực của mình đã được ghi nhận. Nhân dịp này cô Nguyệt cũng bày tỏ niềm mong mỏi của mình cũng như người dân xã biên giới Ia Mơ, tỉnh Gia Lai đó là mong sớm được cải thiện vấn đề nguồn nước sinh hoạt để đảm bảo sức khỏe. Hiện nay, do nguồn nước bị vôi hóa nên không thể nấu ăn uống được mà phải mua nước bình để sử dụng.











