Giới khoa học đang phát triển phương pháp xét nghiệm Covid-19 tốt hơn
Xét nghiệm huyết thanh học sẽ giúp xác định các nhân viên y tế có thể làm việc an toàn, không cần thiết bị bảo vệ hay chịu cách ly xã hội.
Để xét nghiệm người nghi nhiễm virus corona, chuyên viên y tế sẽ lấy bệnh phẩm từ mũi hoặc họng dưới của bệnh nhân gửi đến kỹ thuật viên phòng thí nghiệm. Máu bị nhiễm bệnh sẽ xuất hiện chuỗi RNA đặc trưng của virus. Theo Quartz, ước tính có khoảng 368.000 xét nghiệm như trên được thực hiện trên khắp nước Mỹ.
Ý nghĩa trong hiểu biết kháng thể miễn dịch
Nhưng nếu bạn đã bị bệnh một vài tuần trước rồi khỏi hẳn, muốn kiểm tra xem mình còn mắc Covid-19 hay không, xét nghiệm RNA phân tử sẽ không có tác dụng. Thay vào đó, bạn phải thực hiện xét nghiệm huyết thanh học, tìm dấu hiệu miễn dịch virus trong huyết thanh.
Tuy vậy, các xét nghiệm huyết thanh học hiện nay vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, dù so với xét nghiệm phân tử thì quá trình thực hiện đơn giản hơn và không phải tốn quá nhiều kỹ thuật.
Những phòng thí nghiệm hay công ty tư nhân chủ yếu ở Trung Quốc đang trong giai đoạn phát triển công nghệ xét nghiệm huyết thanh, một trong số đó là sửa đổi từ chính các xét nghiệm dùng cho đợt SARS 2004.
Các nhà miễn dịch học đang tích cực chạy đua đánh giá tính hiệu quả của xét nghiệm huyết thanh học, phát triển phương án thay thế hợp lý và quyết định cách sử dụng tốt nhất trong hoàn cảnh hiện tại.
“Phát triển và phổ biến xét nghiệm huyết thanh là ưu tiên hàng đầu của quốc gia”, nhà khoa học xã hội và bác sĩ ở ĐH Yale Nicholas Christakis cho biết.
Nếu thành công, dự án triển khai xét nghiệm huyết thanh học sẽ giúp xác định các nhân viên y tế, những nhà cung cấp dịch vụ sức khỏe miễn dịch có thể làm việc an toàn, không cần thiết bị bảo vệ hay chịu cách ly xã hội.
Ngoài ra, xét nghiệm những người đã hồi phục định kỳ giúp các nhà khoa học biết được kháng thể miễn dịch sẽ kéo dài trong bao lâu. Hiện tại, kháng thể Covid-19 được dự đoán sẽ miễn dịch ít nhất 40 ngày, thực tế rất có thể là một năm hay thậm chí hơn.
Huyết tương chứa kháng thể của bệnh nhân đã hồi phục khỏi Covid-19 cũng rất quan trọng trong quá trình điều chế thuốc và vaccine trị bệnh. Hơn 100 nhà nghiên cứu từ tổ chức phi lợi nhuận Mayo Clinic và những nơi khác đang phát triển phương pháp điều trị dựa trên huyết tương dành cho những bệnh nhân trong tình trạng nguy kịch nhất.
Nhược điểm của xét nghiệm huyết thanh
Tuy vậy, xét nghiệm huyết thanh cũng có nhược điểm. Kỹ thuật xét nghiệm huyết thanh học phổ biến nhất hiện nay là ELISA, thực hiện bằng cách phơi mẫu máu với các protein mô phỏng vỏ gai nhọn của virus corona.
Nếu các kháng thể trong mẫu thử tấn công protein, mẫu sẽ bắt đầu đổi màu. Nhưng mỗi loại virus corona đều có vỏ gai giống nhau nên trong trường hợp người thử máu không mắc Covid-19, kết quả trả về vẫn là dương tính.
Ngoài ra, xét nghiệm huyết thanh mất thời gian khá lâu để ra được kết quả. Thông qua kiểm tra phản ứng của 2 kháng thể chính immunoglobulin G và M với SARS-CoV-2, nhà nghiên cứu về xét nghiệm huyết thanh tại Mayo Clinic Elitza Theel cho biết phải mất ít nhất là 8 ngày để phản ứng kháng thể trên cơ thể xuất hiện. Hơn nữa, các xét nghiệm thực hiện trước đây vẫn có thể quay trở lại âm tính, dù người bệnh đang thực sự nhiễm virus.
Vì vậy những xét nghiệm huyết thanh chỉ được thực hiện để nghiên cứu trong bệnh viện và phòng thí nghiệm, không sử dụng tại nhà. Theel cho biết thêm là họ vẫn sử dụng xét nghiệm phân tử dành cho bệnh nhân trở nặng và phải hết sức cẩn trọng khi sử dụng xét nghiệm huyết thanh.
Tuần trước, Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ cũng đưa ra khuyến cáo tương tự về việc sử dụng xét nghiệm huyết thanh. Cơ quan vẫn cho phép các nhà sản xuất phát triển và phân phối xét nghiệm huyết thanh, cũng như cho phép những phòng thí nghiệm sử dụng chúng để nghiên cứu.
Tuy nhiên, không nên dùng kết quả xét nghiệm làm cơ sở duy nhất để chẩn đoán hoặc loại trừ khả năng nhiễm SARS-CoV-2. Xét nghiệm chẩn đoán tại nhà vẫn phải chịu sự giám sát chặt chẽ theo quy định.
Theo Gary Miller, phó Trưởng khoa Chiến lược Nghiên cứu tại trường Y tế Cộng đồng Columbia cho biết kỹ thuật xét nghiệm huyết thanh và phương pháp điều trị nó mang lại không quá mới lạ hay phức tạp.
Giới khoa học đã có kinh nghiệm trong quá trình sử dụng chúng để chống lại đợt bùng nổ dịch sởi từ năm 1934. Nhưng do sự thiếu hụt huyết thanh, hạn chế trong công tác nghiên cứu vì cách ly xã hội và sự lây lan quá nhanh của Covid-19 đã khiến mọi thứ trở nên khó khăn hơn.
Miller nói thêm rằng các phòng nghiên cứu đang cực kỳ áp lực trước sức ép thời cuộc. “Chúng tôi đã thực hiện những công việc tương tự trong rất nhiều năm, nhưng quy mô và sự cấp bách của công cuộc đẩy lùi dịch bệnh đang khiến nhiều bên dần phải bỏ cuộc”, ông nói.