Giữ hồn Huế qua vành nón lá

Tiếp nối truyền thống, đồng thời đổi mới để tạo nên giá trị mới, nón lá xứ Huế không chỉ còn là vật dụng quen thuộc mà đã trở thành món quà mang ý nghĩa kết nối giữa di sản và du lịch, gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc.

Xứ Huế có nhiều làng làm nón nổi tiếng, mang vẻ thanh mảnh, tinh tế như chính con người và vùng đất Cố đô. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Xứ Huế có nhiều làng làm nón nổi tiếng, mang vẻ thanh mảnh, tinh tế như chính con người và vùng đất Cố đô. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Dịu dàng nón Huế

Mang trong mình giá trị lịch sử và gắn bó với đời sống hàng trăm năm, nón lá xứ Huế đã đi vào thơ ca, nhạc họa, điện ảnh và cả trong ký ức của người xa xứ. Không chỉ tôn thêm vẻ đẹp của phụ nữ Việt, nón lá còn chứa đựng tinh hoa của một nghề truyền thống lâu đời, trở thành biểu tượng của sự dịu dàng, nền nã.

Cùng với nón làng Chuông, nón ngựa Phú Gia hay nón lá Cần Thơ, nón Huế góp phần định hình hình ảnh văn hóa Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Trên đất Cố đô, hình ảnh vành nón nghiêng của nữ sinh áo trắng bên cầu Trường Tiền hay những Mệ, những O trên đồng ruộng, trên bến chợ đã trở thành ký ức gắn bó.

Người làm nón phải thực hiện khoảng nhiều công đoạn, càng già dặn tay nghề càng làm nhanh và đẹp. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Người làm nón phải thực hiện khoảng nhiều công đoạn, càng già dặn tay nghề càng làm nhanh và đẹp. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Huế cũng nổi tiếng với nhiều làng nghề chằm nón như Vân Thê, Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây, Kim Long, Sịa... Trong đó, làng nón Tây Hồ (xã Phú Hồ) được biết đến với nón bài thơ – loại nón khi soi dưới ánh sáng hiện lên những vần thơ, hình ảnh chùa Thiên Mụ hay cầu Trường Tiền tinh tế. Ngoài ra, làng nón Phú Cam bên dòng An Cựu hay làng nón Vân Thê, cùng chợ nón Dạ Lê chuyên buôn bán nón và nguyên liệu làm nón, đều góp phần làm nên thương hiệu nón lá Huế.

Nón lá Huế được tạo nên từ khung tre già, chẻ mảnh, uốn thành vòng tròn đều để tạo độ chắc chắn. Nhờ sự khéo léo trong việc dựng khung, nón vừa nhẹ, vừa giữ được dáng lâu bền. Để hoàn thành một chiếc nón, người thợ phải trải qua khoảng nhiều công đoạn, từ hái lá, sấy, ủi, chọn lá, chọn khung, uốn vành, lợp lá, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ… cho đến bước cuối cùng là đánh bóng, bảo quản. Mỗi công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên trì và tay nghề vững vàng.

Nón lá được trang trí bằng các họa tiết thêu và tranh vẽ với sự phối hợp màu sắc hài hòa, tạo nên nét độc đáo và khác biệt. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Nón lá được trang trí bằng các họa tiết thêu và tranh vẽ với sự phối hợp màu sắc hài hòa, tạo nên nét độc đáo và khác biệt. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Đặc biệt, những nghệ nhân – phần lớn là phụ nữ, thường chằm thêm họa tiết thêu hoặc vẽ, từ hoa lá đến hoa văn truyền thống, tạo nên nét thanh thoát đặc trưng cho nón Huế. Lớp dầu bảo vệ được quét trên bề mặt không chỉ giúp sản phẩm bóng mượt, bền đẹp mà còn chống lại tác động của thời tiết, tạo nên sự khác biệt so với nón ở nhiều địa phương khác.

Chị Thúy, một thợ chằm nón lâu năm, cho biết khi chằm phải để tay trong tay ngoài, phối hợp nhịp nhàng như một chiếc máy may thì mũi chằm mới đều, lá không rách, mặt nón phẳng và không phồng rộp. Người có kinh nghiệm còn có thể chằm nhanh, thậm chí trong bóng tối vẫn làm được.

Bà Dương Thị Búp, nghệ nhân làng nón Tây Hồ, chia sẻ "Nón lá bài thơ là niềm tự hào lớn của người dân Tây Hồ. Ngày trước, từ nhỏ đến lớn ai cũng biết chằm nón. Các bà, các cô thường tụ tập vừa chằm vừa trò chuyện. Trong gia đình, mẹ và chị thường dựng khung, lợp vành lá rồi giao cho con cái chằm, trai gái đều làm được. Nghề nón đã giúp nhiều gia đình ổn định, thậm chí khá giả".

Những chiếc nón làm từ cỏ bàng, lá sen hay trúc chỉ sử dụng chất liệu mới, góp phần mang đến sự đổi mới cho các làng nghề. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Những chiếc nón làm từ cỏ bàng, lá sen hay trúc chỉ sử dụng chất liệu mới, góp phần mang đến sự đổi mới cho các làng nghề. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Mỗi chiếc nón được ví như một tác phẩm nghệ thuật, không chỉ chú trọng chất lượng mà còn tinh tế ở chi tiết trang trí như viền và quai nón. Nón lá Huế khác biệt với các vùng khác bởi sự thanh mảnh, nhẹ nhàng, được làm từ chất liệu đặc biệt giúp nón "mỏng như tờ giấy, nhẹ hơn cánh nhạn".

Sau thời gian thăng trầm, từ năm 2000, nghề chằm nón Huế khởi sắc trở lại nhờ các kỳ Festival Huế và Festival Nghề truyền thống. Sản phẩm được du khách biết đến nhiều hơn, lượng tiêu thụ tăng, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân. Hiện nhiều làng nón hoạt động sôi nổi trở lại, như Vân Thê với 70 hộ làm nghề.

Tiêu biểu, cơ sở nón lá Nguyễn Thị Kiềm nhiều năm liền được bình chọn là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh (2015, 2017, 2021). Nghề nón lá Vân Thê cũng đã được thành phố Huế công nhận là Làng nghề truyền thống.

Với sự tỉ mẩn trong từng công đoạn của những nghệ nhân, mỗi chiếc nón thành phẩm chính là một tác phẩm nghệ thuật. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Với sự tỉ mẩn trong từng công đoạn của những nghệ nhân, mỗi chiếc nón thành phẩm chính là một tác phẩm nghệ thuật. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Từ truyền thống tới cách tân

Với tình yêu và khát vọng giữ gìn một sản phẩm đặc trưng của Việt Nam, nhiều cơ sở và làng nghề ở Huế đã nỗ lực bảo tồn, đồng thời tìm hướng phát triển mới cho nghề chằm nón. Bên cạnh sản phẩm truyền thống, những chiếc nón lá được sáng tạo, tô điểm thêm họa tiết thêu, vẽ, khắc họa danh lam thắng cảnh, di tích Huế, hình ảnh phụ nữ Việt trong tà áo dài hay tranh dân gian, qua đó trở thành sản phẩm văn hóa độc đáo gửi đến du khách trong và ngoài nước.

Nhiều loại nón cách tân ra đời như nón ba lớp từ lá Bồ quy diệp, nón lá sen, nón chuông vẽ tranh, nón cỏ bàng, nón nan tre thêu họa tiết, nón kè, nón trúc chỉ... Trong đó, nón lá sen được đánh giá cao bởi chất liệu độc bản: mỗi chiếc lá có đường gân, sắc độ riêng, vừa bền, vừa mộc mạc. Tương tự, nón trúc chỉ tạo hiệu ứng ánh sáng đặc biệt, mang tính nghệ thuật cao, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.

Nhiều làng nón hoạt động trở lại tấp nập như làng nón Vân Thê hiện có 70 hộ làm nghề chằm nón. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Nhiều làng nón hoạt động trở lại tấp nập như làng nón Vân Thê hiện có 70 hộ làm nghề chằm nón. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Nghệ nhân Châu Huỳnh Ngọc cho biết, việc kết hợp thêu và vẽ tranh trên nền lá sen đã đưa nón Huế lên tầm sản phẩm thủ công cao cấp. Giá bán một chiếc nón lá nghệ thuật hiện từ 150.000 đến 650.000 đồng, cao hơn nhiều lần nón truyền thống, qua đó mang lại thu nhập ổn định và khẳng định vị thế của nón Huế trên thị trường.

Không chỉ giữ vai trò sản xuất, nhiều làng nghề nón lá ở Huế ngày nay còn trở thành điểm du lịch trải nghiệm, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Tại đây, du khách có thể trực tiếp tham gia các công đoạn làm nón, từ chọn lá đến chằm và hoàn thiện sản phẩm.

Nhiều cơ sở nón lá, các làng nghề làm nón lá ở Huế cũng trở thành những điểm du lịch trải nghiệm thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Nhiều cơ sở nón lá, các làng nghề làm nón lá ở Huế cũng trở thành những điểm du lịch trải nghiệm thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Ảnh: Tiêu Dao – Bảo Anh

Chị Nguyễn Thị Kiệm, hơn 45 năm gắn bó với nghề tại làng nón Vân Thê, cho biết cơ sở của chị mỗi ngày đều đón nhiều đoàn khách tham quan. Cơ sở hiện có khoảng 10 lao động, thu nhập chính đến từ việc trình diễn nghề và bán sản phẩm tại chỗ.

Chính quyền thành phố Huế cũng đang triển khai các chương trình quảng bá, bảo hộ thương hiệu và tài sản trí tuệ cho làng nghề nón lá, coi đây là một trong những sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ lực phục vụ du lịch. Ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND phường Thanh Thủy, nhấn mạnh nón lá là sản phẩm gắn liền với văn hóa Huế, cần được đầu tư để vừa bảo tồn vừa phát triển kinh tế địa phương.

Hiện nay, các làng nón nổi tiếng như Tây Hồ, Mỹ Lam, Phú Cam, Phước Vĩnh, Đốc Sơ, Triều Tây, Hương Sơ, Dạ Lê, Vân Thê… mỗi năm cung cấp ra thị trường hàng triệu chiếc nón. Không chỉ phục vụ đời sống thường nhật, nón lá Huế còn trở thành món quà lưu niệm đặc sắc, theo chân du khách đi khắp thế giới.

Tiêu Dao Bảo Anh

Nguồn Sài Gòn Tiếp Thị: https://sgtt.thesaigontimes.vn/giu-hon-hue-qua-vanh-non-la/