Giữ trò trước thềm năm học mới

Mỗi học sinh đến trường hôm nay chính là một hạt mầm gieo xuống cho ngày mai đất nước thêm xanh tươi. Giữ được các em ở lại với con chữ cũng có nghĩa là giữ được niềm tin, khát vọng đổi thay cho những vùng biên cương xa xôi.

Tháng Chín lại về, báo hiệu một năm học mới đang bắt đầu. Ở miền xuôi, khi những con phố rộn ràng sắc cờ hoa, trường lớp được trang hoàng sạch đẹp để chờ đón ngày khai giảng thì ở một số địa phương vùng cao, vùng sâu, vùng biên giới, không khí ấy lại khác hẳn. Ở nơi ấy, những cơn mưa cuối mùa cùng với những trận lũ quét vừa đi qua vẫn để lại dấu tích nặng nề. Con đường đến trường của giáo viên và học sinh sạt lở, vùi lấp; nhiều điểm trường còn ngổn ngang sau lũ, bàn ghế xiêu vẹo, sân trường lấm lem bùn đất. Hình ảnh đối lập ấy khiến tôi không khỏi chạnh lòng mỗi khi nhớ về quãng thời gian gắn bó với nghề dạy học nơi vùng cao đầy gian khó.

Còn nhớ cách đây chừng mười năm, vào những ngày cuối tháng Tám, chúng tôi – những giáo viên vùng cao tỉnh Nghệ An – luôn phải tập trung sớm hơn so với đồng nghiệp miền xuôi. Công việc không chỉ gói gọn trong việc sắp xếp phòng học, bàn ghế, mà còn cả việc "đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng học sinh" để làm công tác phổ cập giáo dục và vận động học sinh đến trường. Việc vận động học sinh khi ấy gần như là một "chiến dịch" thực sự, đòi hỏi sự kiên trì và quyết tâm rất lớn.

Tôi vẫn còn nguyên ký ức hơn 10 năm trước, ngày chuẩn bị tựu trường, chúng tôi phải chia nhau vào từng bản. Đường lầy lội, trơn trượt, không ít lần ngã dúi dụi xuống bùn. Mỗi người chỉ kịp gói một nắm xôi mang theo để lót dạ dọc đường. Có khi đến nơi, phụ huynh còn ngần ngại cho con đi học vì phải phụ giúp gia đình làm nương, lên rẫy. Chúng tôi phải thuyết phục, phân tích, nhiều khi còn hứa sẽ đón tận nơi, đưa tận chỗ thì các em mới chịu theo thầy cô đến lớp. Vất vả là thế, nhưng chỉ cần thấy học trò có mặt trong ngày khai giảng, nghe tiếng trống trường vang lên, bao nhọc nhằn cũng tan biến, chỉ còn niềm vui lấp lánh trong ánh mắt thầy trò.

Ngày ấy, tôi đã thấm thía một điều: ở vùng cao, để một đứa trẻ cắp sách đến trường là cả một hành trình dài của sự kiên trì, tận tâm và trách nhiệm.

Giờ đây, diện mạo giáo dục vùng cao đã có nhiều đổi thay. Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của ngành Giáo dục, cùng với chính sách hỗ trợ, nhiều ngôi trường khang trang đã được xây dựng. Hệ thống trường bán trú, nội trú cho học sinh vùng sâu, vùng xa ngày càng hoàn thiện, giúp các em có nơi ăn, chốn ở ổn định để yên tâm học tập. Các chính sách hỗ trợ gạo, học bổng, miễn giảm học phí đã góp phần quan trọng để học sinh đến trường đều đặn hơn.

Điều đáng mừng là nhận thức của phụ huynh cũng dần thay đổi. Nếu như trước kia nhiều người coi chuyện học chỉ là "phụ", thì nay đa phần đã hiểu rằng học hành chính là con đường giúp con em mình thoát nghèo, có tương lai tươi sáng hơn. Nhờ đó, công tác vận động học sinh đến lớp có phần nhẹ nhàng hơn so với mười năm trước.

Tuy vậy, sự thay đổi ấy chưa thể đồng đều ở tất cả các bản làng. Vẫn còn không ít gia đình coi việc đi học là thứ yếu, nhất là sau những ngày nghỉ hè, học sinh thường ở nhà phụ giúp cha mẹ. Chỉ cần một em bỏ học cũng đồng nghĩa với việc bỏ lại sau lưng cả một tương lai. Điều đó thôi thúc chúng tôi – những giáo viên vùng cao – không thể lơi là trong việc vận động. Đã thành thói quen, trước mỗi năm học mới, thầy cô lại lặn lội vào từng bản, gõ cửa từng nhà, nói chuyện với phụ huynh, dỗ dành học trò trở lại lớp.

Dẫu đã có nhiều chính sách hỗ trợ, song không thể phủ nhận rằng con đường học tập của trẻ em vùng cao vẫn đầy gian nan. Thiên tai, lũ lụt là trở ngại lớn. Chỉ cần một trận mưa lớn, đường đến trường có thể bị chia cắt, những cây cầu gỗ tạm bợ dễ dàng bị cuốn trôi. Có em đến trường bằng đôi dép rách, chiếc áo mỏng không đủ ấm trong mùa đông rét cắt da. Trong khi đó, thầy cô giáo phải xa nhà hàng trăm cây số, gác lại hạnh phúc riêng để bám trường, bám lớp với mức lương không cao, điều kiện sinh hoạt còn thiếu thốn.

Hơn thế nữa, sự phát triển của công nghệ, internet khiến một bộ phận học sinh vùng cao dễ bị cuốn vào những cám dỗ khác thay vì chuyên tâm học tập. Có em bỏ học giữa chừng để đi làm thuê, phụ giúp gia đình. Nỗi lo học sinh bỏ học, nghỉ học dài ngày vẫn đeo bám các thầy cô mỗi khi năm học mới đến gần.

Nhiều người thường hỏi: "Đi dạy ở miền núi vất vả thế, sao vẫn gắn bó?" Tôi chỉ mỉm cười. Thực ra, sự gắn bó ấy xuất phát từ tình thương, từ trách nhiệm và từ niềm tin rằng chỉ có con chữ mới giúp vùng cao thay đổi. Mỗi em học sinh đến lớp là thêm một tia sáng cho tương lai.

Chúng tôi không chỉ dạy chữ, mà còn dạy cho các em kỹ năng sống, dạy cách mơ ước và nuôi dưỡng khát vọng. Có em từng theo thầy cô ra khỏi bản, tiếp tục học lên cao, nay đã trở thành cán bộ xã, giáo viên, y tá, công an. Nhìn các em trưởng thành, tôi càng tin rằng sự hy sinh của thầy cô nơi vùng biên cương không hề vô nghĩa.

Giữ học trò ở lại lớp không chỉ là trách nhiệm của riêng thầy cô giáo vùng cao, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Bởi mỗi học sinh đến trường hôm nay chính là một hạt mầm gieo xuống cho ngày mai đất nước thêm xanh tươi. Giữ được các em ở lại với con chữ cũng có nghĩa là giữ được niềm tin, khát vọng đổi thay cho những vùng biên cương xa xôi.

Trước thềm năm học mới, tôi chỉ mong sao tiếng trống khai trường không chỉ vang lên ở miền xuôi, nơi phố thị, mà còn vang vọng, ngân dài đến tận những bản làng xa xôi, xuyên qua dốc núi, băng qua con suối để gọi các em học trò vùng cao trở lại. Bởi giữ học trò vùng cao, suy cho cùng, chính là giữ lấy tương lai của dân tộc này.

* Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả

Đào Thọ

Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/giu-tro-truoc-them-nam-hoc-moi-204250904113549533.htm