Gỡ nút thắt thể chế để thị trường vàng vận hành đúng quy luật thị trường
Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP, có hiệu lực từ 10/10, mở ra giai đoạn cải cách mới cho thị trường vàng. Để thu hẹp chênh lệch giá nội-ngoại, giảm vàng lậu và khôi phục niềm tin, yêu cầu cấp thiết là đổi mới tư duy quản lý, bổ sung nguồn cung chính ngạch và minh bạch hóa giao dịch theo chuẩn quốc tế.

Người dân giao dịch mua vàng tại một cửa hàng trên phố Trần Nhân Tông (Hà Nội) trong bối cảnh giá vàng liên tục biến động mạnh. (Ảnh: MINH PHƯƠNG)
Áp lực cải cách từ những lệch pha thị trường kéo dài
Trong thời gian qua, giá vàng trong nước liên tục tăng mạnh, có thời điểm chênh lệch tới 20% so với giá thế giới. Dù mức chênh lệch cao, các cửa hàng lớn vẫn ghi nhận cảnh người dân xếp hàng từ sáng sớm đến trưa, chiều với tâm lý “sợ bỏ lỡ cơ hội”, nhất là khi giá vàng đã tăng tới 80% chỉ trong hai năm. Đây là minh chứng cho thấy vàng vẫn là kênh tích trữ quan trọng, có sức hấp dẫn lớn trong bối cảnh bất động sản trầm lắng, trái phiếu và cổ phiếu còn nhiều rủi ro, trong khi các kênh tiết kiệm truyền thống không còn mức lợi suất như trước.
Theo thông tin được đưa ra tại diễn đàn về thị trường vàng Việt Nam mới đây, trái ngược lại, thị trường vàng trang sức rơi vào tình trạng vắng vẻ. Giá vàng nguyên liệu tăng mạnh kéo theo giá thành trang sức leo thang, buộc người dân thắt chặt chi tiêu. Nhiều cơ sở kinh doanh phản ánh lượng khách mua vàng trang sức hay các sản phẩm mỹ nghệ sụt giảm rõ rệt.
Trong khi đó, thị trường sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ vốn là lĩnh vực tạo ra giá trị gia tăng lớn vẫn gặp nhiều khó khăn. Theo ông , ông Vũ Hùng Sơn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty CP Vàng bạc đá quý Bảo Tín Mạnh Hải cho biết, cả nước hiện có khoảng 6.800 cơ sở sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. Ngành này tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động, và với những sản phẩm có giá trị tăng thêm từ 20-50% so với nguyên liệu ban đầu, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, nguồn cung vàng nguyên liệu phục vụ sản xuất lại phụ thuộc chủ yếu vào lượng vàng quay vòng trong nước. Việc hạn chế nhập khẩu vàng trong nhiều năm khiến doanh nghiệp gặp khó trong đảm bảo nguyên liệu, làm chi phí sản xuất tăng, buộc giá bán phải tăng theo và làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm.
Sự méo mó của thị trường còn thể hiện ở việc nhiều thời điểm vàng miếng khan hàng, doanh nghiệp phải tạm ngừng bán hoặc chỉ cung ứng nhỏ giọt. Sự thiếu vắng nguồn cung chính ngạch khiến thị trường trở nên nhạy cảm với biến động giá quốc tế, tạo điều kiện cho các giao dịch không chính thức và vàng lậu phát sinh.
Theo phân tích của Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển lâu nay chúng ta thường coi vàng là mặt hàng “nhạy cảm”, dẫn tới cách tiếp cận quản lý dè dặt. Tuy nhiên, ông chỉ ra một thực tế rất đáng chú ý: mỗi năm Việt Nam chi tới khoảng 11 tỷ USD để nhập khẩu xì gà, rượu ngoại hay mỹ phẩm, trong khi nếu nhập khẩu khoảng 50 tấn vàng tương đương mức vàng lậu được ước tính vào Việt Nam mỗi năm thì chỉ cần khoảng 5 tỷ USD, một con số không quá lớn so với quy mô nền kinh tế.
Việc hạn chế nhập khẩu vàng chính thức vô tình làm gia tăng vàng nhập lậu. Theo Hội đồng Vàng thế giới, khoảng 75% lượng vàng mà người dân đang tích trữ có nguồn gốc từ nhập lậu. Điều này không chỉ cho thấy sự thất thoát ngoại tệ mà còn phản ánh tình trạng méo mó: chính việc thiếu nguồn cung hợp pháp đã đẩy người dân và doanh nghiệp vào các kênh phi chính thức mà cơ quan quản lý khó kiểm soát.
Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh rằng việc người dân tích trữ vàng là nhu cầu hoàn toàn chính đáng, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát toàn cầu, bất ổn địa chính trị và tốc độ tăng cung tiền thế giới cao hơn tốc độ gia tăng lượng vàng khai thác. Theo ông, với mức tăng cung vàng toàn cầu chỉ từ 1,2% đến 1,5% mỗi năm, trong khi cung tiền tăng từ 3,5% đến 4,5%, việc vàng tăng giá trong dài hạn là quy luật tất yếu. Vì thế, không thể trách người dân giữ vàng, càng không thể kêu gọi họ ngừng tích trữ khi giá trong nước cao hơn thế giới. Thay vào đó, câu hỏi cần đặt ra là tại sao người dân Việt Nam phải mua vàng đắt hơn 20% so với giá quốc tế.
Những phân tích này cho thấy thị trường vàng chỉ có thể ổn định khi được vận hành theo quy luật thị trường, khi nguồn cung dồi dào và giao dịch minh bạch. Đó cũng chính là mục tiêu của Nghị định 232.
Nghị định 232 và lộ trình minh bạch hóa thị trường vàng
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị định 24, Nghị định 232 ra đời nhằm điều chỉnh những bất cập kéo dài và tạo nền tảng để cải cách thị trường vàng. Nghị định đưa ra những thay đổi lớn về quản lý, kinh doanh vàng và đặt mục tiêu hướng thị trường vận hành theo nguyên tắc cung-cầu, giảm can thiệp hành chính và tạo môi trường minh bạch hơn.

Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển.
Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ cấp phép nhập khẩu vàng nguyên liệu để bổ sung nguồn cung. Dự kiến chậm nhất đến giữa tháng 12, việc cấp phép nhập khẩu đợt đầu sẽ được xem xét, giúp các doanh nghiệp có thêm nguyên liệu phục vụ sản xuất, chế tác và ổn định thị trường. Khi nguồn cung nguyên liệu được cải thiện, giá vàng trong nước sẽ có cơ hội thu hẹp dần khoảng cách với thế giới.
Theo Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa, để Nghị định 232 phát huy hiệu quả, điều quan trọng nhất là thay đổi tư duy quản lý. Ông cho rằng chúng ta cần chuyển từ cách tiếp cận “siết để kiểm soát” sang “mở để quản trị theo nguyên tắc thị trường”. Việc cấp quota nhập khẩu trong giai đoạn đầu có thể cần sự thận trọng, nhưng về lâu dài, cần mở rộng quyền nhập, xuất khẩu vàng cho nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện. Điều này vừa tăng tính cạnh tranh, vừa hạn chế tình trạng độc quyền, đồng thời góp phần giảm buôn lậu.
Một điểm then chốt khác là sự minh bạch trong giao dịch. Nghị định 232 yêu cầu mọi giao dịch từ 20 triệu đồng trở lên phải thanh toán qua tài khoản, đồng thời doanh nghiệp kinh doanh vàng phải kết nối dữ liệu với Ngân hàng Nhà nước, cơ quan thuế, hải quan và hệ thống ngân hàng. Đây là bước đi quan trọng để kiểm soát dòng tiền, hạn chế giao dịch “ngầm”, phòng chống rửa tiền và tạo nền tảng cho một thị trường vận hành hiện đại.
Tuy nhiên, cải cách sẽ chưa trọn vẹn nếu thiếu một thiết chế quan trọng: Sàn giao dịch vàng quốc gia. Nhiều chuyên gia cho rằng cần nghiên cứu mô hình sàn vàng thuộc Sở Giao dịch Hàng hóa hoặc trung tâm tài chính quốc tế. Sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ giúp chuẩn hóa giá vàng theo quốc tế, giảm phụ thuộc vào hoạt động mua bán nhỏ lẻ và hạn chế nhu cầu nắm giữ vàng vật chất, qua đó giảm buôn lậu và tạo minh bạch cho toàn thị trường. Việc lưu ký vàng, kiểm định chất lượng và giám sát giao dịch tập trung cũng sẽ giúp cơ quan quản lý thực hiện chức năng điều tiết hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, việc phát triển ngành trang sức mỹ nghệ cần được xem là một trụ cột quan trọng. Đây là ngành có giá trị gia tăng lớn, đóng góp thuế cao và tạo sinh kế cho hàng vạn lao động. Khi nguồn nguyên liệu được bổ sung chính ngạch và các quy định được hoàn thiện, ngành này có thể trở thành một trong những lĩnh vực có lợi thế xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời giúp “chuyển hóa” nguồn lực vàng trong dân thành giá trị kinh tế.
Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa cho rằng vàng trong dân với ước tính thấp nhất khoảng 500 tấn thực chất là một dạng tài sản dự trữ quốc gia, thể hiện thói quen tiết kiệm và phòng ngừa rủi ro rất đáng quý của người dân Việt Nam. Ông nhiều lần nhấn mạnh, việc tích trữ vàng không phải là tiêu cực, càng không phải là nguyên nhân gây bất ổn kinh tế như những quan điểm trước đây. Vấn đề lớn nhất không nằm ở nhu cầu giữ vàng, mà ở chỗ người dân phải mua vàng với giá cao hơn thế giới do thị trường méo mó, nhập khẩu bị siết chặt và tình trạng độc quyền kéo dài.
Theo Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa, muốn chấm dứt tình trạng này, điều cốt lõi là không siết chặt hành chính, mà phải xây dựng một thị trường vàng minh bạch, công bằng và cạnh tranh, nơi việc mua, bán được dẫn dắt bởi quy luật cung-cầu thay vì những rào cản về thủ tục và hạn chế về nguồn cung. Ông cho rằng cần xóa bỏ độc quyền xuất nhập khẩu vàng miếng, mở rộng quyền tham gia thị trường cho các ngân hàng thương mại lớn và một số doanh nghiệp có đủ năng lực; đồng thời phải sớm hình thành Sàn giao dịch vàng vật chất, công khai giá theo chuẩn quốc tế, để thị trường không còn “mù mờ thông tin” hay bị thao túng.
Khi thị trường được tổ chức theo mô hình hiện đại, minh bạch, vàng sẽ không còn là kênh đầu cơ gây bất ổn, mà trở thành một bộ phận hữu ích của nền kinh tế, đóng góp vào sản xuất, chế tác, xuất khẩu và tạo nguồn ngoại tệ. Nguồn lực vàng trong dân sẽ được đưa vào lưu thông một cách an toàn, hiệu quả, thay vì bị cô lập trong các kênh giao dịch phi chính thức. “Mục tiêu cuối cùng phải là thị trường minh bạch, công bằng, để người dân nghèo không phải mua vàng đắt hơn người nước ngoài”, Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh.











