Góp phần vào sự bình yên, no ấm cho Tây Nguyên
Được Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) gắn giữ vững quốc phòng, an ninh (QPAN) trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, hơn 30 năm qua, Binh đoàn 15 (Bộ Quốc phòng) đã đem lại mầu xanh no ấm và trở thành chỗ dựa vững chắc cho đồng bào các dân tộc trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, góp phần xây dựng quê hương Tây Nguyên ngày càng giàu đẹp.

Cán bộ Công ty 72 (Binh đoàn 15) hướng dẫn kỹ thuật trồng lúa nước cho đồng bào dân tộc thiểu số huyện Đức Cơ (Gia Lai).
Được Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) gắn giữ vững quốc phòng, an ninh (QPAN) trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, hơn 30 năm qua, Binh đoàn 15 (Bộ Quốc phòng) đã đem lại mầu xanh no ấm và trở thành chỗ dựa vững chắc cho đồng bào các dân tộc trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, góp phần xây dựng quê hương Tây Nguyên ngày càng giàu đẹp.
Địa bàn đứng chân của Binh đoàn 15 kéo dài hơn 270 km dọc biên giới hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Phần lớn là các xã vùng xa, vùng sâu, vùng biên giới, giao thông cách trở, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, trình độ dân trí thấp, sản xuất chủ yếu tự cung, tự cấp, du canh du cư… do vậy, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Binh đoàn xác định khâu đột phá đầu tiên là phải làm tốt công tác vận động quần chúng.
Thực hiện phương châm: “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm cho dân thấy, dân tin”, các cơ quan, đơn vị của Binh đoàn cùng cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể ở địa phương thường xuyên xuống các buôn làng, tranh thủ ý kiến các già làng, trưởng thôn, tích cực hợp tác, vận động người dân định canh định cư, góp sức với cán bộ, chiến sĩ đơn vị khai hoang, mở rộng đất đai, tổ chức sản xuất. Đến nay, Binh đoàn đã trồng, khai thác 44.000 ha cao-su, 300 ha cà-phê, 70 ha lúa nước, thu hút và giải quyết việc làm cho gần 17 nghìn lao động, trong đó có hơn 8.000 lao động là con em đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) tại chỗ.
Thông qua các phương án tổ chức sản xuất, Binh đoàn đã phối hợp chính quyền các địa phương bố trí các cụm dân cư theo thế chiến lược đan xen buôn làng và địa hình phòng thủ. Với phương châm: “Binh đoàn gắn với tỉnh; công ty gắn với huyện, xã; đội sản xuất gắn với buôn làng; hộ công nhân người Kinh gắn với hộ đồng bào DTTS”, đến nay các công ty, đơn vị đã tổ chức kết nghĩa với 33 xã, các đội sản xuất kết nghĩa với 220 thôn, làng; 4.276 cặp hộ công nhân người Kinh gắn kết với 4.276 hộ đồng bào DTTS. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ, vững chắc về kinh tế, Binh đoàn còn đề ra chính sách thu hút lao động, đặc biệt ưu tiên lao động là đồng bào DTTS địa phương.
Với phương châm “Phát triển và mở rộng sản xuất đến đâu, thu hút lao động và xây dựng khu dân cư đến đó”, từ chỗ chỉ có gần 5.000 lao động với ba cụm và 21 điểm dân cư, 1.718 hộ vào năm 1990, đến nay Binh đoàn đã có hơn 17 nghìn lao động, được bố trí trên 10 cụm, với hàng trăm điểm dân cư dọc biên giới. Tại đây, Binh đoàn đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây dựng đồng bộ hệ thống “Điện, đường, trường, trạm” ở các huyện biên giới giáp nước bạn Cam-pu-chia, phục vụ nhu cầu của cán bộ, chiến sĩ và người dân địa phương.
Đại tá Hoàng Văn Sỹ, Tư lệnh Binh đoàn 15, cho biết: Chính nhờ đời sống ổn định, kinh tế phát triển và thường xuyên được tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, cho nên trong các vụ gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội (ANCT, TTATXH) tại Tây Nguyên thời gian qua, cư dân trong vùng dự án, các buôn làng đồng bào DTTS do Binh đoàn quản lý, không có ai bị bọn xấu lôi kéo tham gia. Đó cũng chính là tiền đề chính trị, nền tảng vật chất vững chắc mà không một thế lực phản động nào có thể lôi kéo, kích động bà con tham gia vào những việc làm sai trái, chống lại cách mạng, chống lại nhân dân.
Đến nay, trong tổng số hơn 17 nghìn cán bộ, công nhân viên và người lao động, Binh đoàn đã tuyển dụng hơn 4.000 hộ, với hơn 8.000 lao động là người DTTS tại chỗ vào làm công nhân, hoặc nhận khoán vườn cây của Binh đoàn, tạo ra những nhân tố mới trong xây dựng buôn làng văn hóa, đẩy lùi nghèo nàn và các tập tục lạc hậu, đồng thời là hạt nhân đoàn kết, tích cực vận động cộng đồng giữ vững ANCT, TTATXH địa phương. Nhờ được vào làm công nhân, được tiếp cận cách thức làm ăn mới, có tổ chức, kỷ luật và kỹ thuật, đồng bào đã dần bỏ được thói quen canh tác lạc hậu vốn đã ăn sâu trong nếp nghĩ, cách làm.
Nhiều năm qua, cùng với việc ưu tiên tuyển dụng người tại chỗ vào làm công nhân và nhận khoán chăm sóc vườn cây, Binh đoàn còn chú trọng đào tạo bồi dưỡng về nhiều mặt cho đội ngũ này. Chỉ tính từ năm 1999 đến nay, đã có 2.643 lượt lao động được đào tạo về chuyên môn, kỹ thuật (trong số này hiện có hơn 2.000 lao động đang là thợ đứng cạo mủ, chiếm 61,67%); ngoài ra đơn vị còn hướng dẫn cho hàng nghìn lượt người về kỹ thuật chăm sóc cao-su, cà-phê, canh tác lúa nước. Nhiều thanh niên công nhân đã phấn đấu trưởng thành, được kết nạp Đảng, được giao giữ các chức vụ đội trưởng, đội phó, tổ trưởng sản xuất; nhiều người vượt qua bỡ ngỡ ban đầu, vươn lên trong cuộc sống, giàu có và trở thành những tấm gương sản xuất, kinh doanh giỏi cho cộng đồng noi theo. Rơ Mah M’rao, ở làng Boong, xã Ia Dơk (Đức Cơ) là một thí dụ.
Ngoài 10 ha cao-su nhận khoán chăm sóc, gia đình anh còn tự trồng 10 ha cao-su tiểu điền, làm thêm 10 ha điều, 3 ha cà-phê, 2 ha sắn, nuôi 20 con bò... bình quân mỗi vụ thu hoạch, lãi khoảng 1,5 tỷ đồng. Tài sản của gia đình anh, sau hơn 20 năm vào làm công nhân cao-su, đến nay có hàng chục tỷ đồng, với ba căn nhà xây kiên cố, hai xe ô-tô con, một xe tải. Các con Rơ Mah M’rao nhờ đó được ăn học, giờ đã trưởng thành, có công ăn việc làm ổn định. Rơ Mah M’rao hiện là Thượng úy, quân nhân chuyên nghiệp, Đội phó Đội sản xuất số 13, thuộc Công ty cao-su 75...
Nhiều thanh niên khác nhờ vào làm công nhân cao-su, chịu khó học hỏi cho nên gia đình có cuộc sống và thu nhập ổn định như Kpui Chel, 40 tuổi, hiện là Đội phó Đội sản xuất số 10, Công ty cao-su 75; Rơmah Chiu, Ksor Găn, Rơ Lan In, Rơ Lan Lim (làng Grôn, xã Ia Kriêng, huyện Đức Cơ)… Có thể nói, những thế hệ công nhân mới như M’rao, Kpui Chel… là những nhân tố tích cực, lực lượng nòng cốt ở các buôn làng Tây Nguyên. Họ biết làm giàu, cùng với các già làng, trưởng thôn và bà con tích cực tham gia, xóa bỏ các tập quán lạc hậu, xây dựng cuộc sống mới.
Đánh giá về những đóng góp của cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn 15 đối với địa phương, đồng chí Dương Văn Trang, Ủy viên T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, cho biết: Chủ trương vận động đưa đồng bào DTTS vào làm công nhân, nhận chăm sóc vườn cây; tổ chức kết nghĩa các đội sản xuất với các buôn làng và gắn kết hộ công nhân người Kinh với đồng bào DTTS của Binh đoàn 15 đã giúp địa phương rất nhiều; tạo nên sự chuyển biến mới trong nhận thức của đồng bào về công cuộc xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, các đơn vị đã tích cực cùng cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể địa phương tham gia củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng Gia Lai ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh.