GS.TS Nguyễn Thị Doan: VIASEE cần tiên phong 'dẫn dắt đổi mới xanh'

Trong kỷ nguyên chuyển đổi số và kinh tế tuần hoàn, Hội Kinh tế môi trường Việt Nam cần tiên phong trong 'dẫn dắt đổi mới xanh', tạo ra những đột phá trong hành trình hướng tới Net Zero 2050 của Việt Nam.

Đó là kỳ vọng của GS.TS Nguyễn Thị Doan - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước; Phó Chủ tịch không chuyên trách Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam - đối với Hội Kinh tế môi trường Việt Nam (VIASEE).

Nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập VIASEE, PV Tạp chí Kinh tế Môi trường đã có cuộc trò chuyện với GS.TS Nguyễn Thị Doan về vai trò tiên phong của VIASEE trong kỷ nguyên mới, cũng như tầm nhìn hợp tác giữa các hội nghề nghiệp trong công tác giáo dục môi trường.

GS.TS Nguyễn Thị Doan - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước; Phó Chủ tịch không chuyên trách Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam.

GS.TS Nguyễn Thị Doan - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước; Phó Chủ tịch không chuyên trách Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam.

Biến thách thức biến đổi khí hậu thành cơ hội để phát triển bền vững

Thưa GS.TS, cách đây 5 năm, bà từng khẳng định: “Phát triển kinh tế không thể tách rời bảo vệ môi trường”. Đến nay, bà đánh giá như thế nào về tiến bộ của Việt Nam trong việc thực hiện mô hình kinh tế xanh, đặc biệt với quyết tâm thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050?

GS.TS Nguyễn Thị Doan:Ý kiến trên không chỉ là một nhận định, mà nó được đúc kết từ nguyên tắc cốt lõi mà Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì theo đuổi, hướng tới phát triển bền vững.

Đến nay sau 5 năm, Việt Nam đã có những bước tiến ấn tượng, dù vẫn đối mặt với thách thức để hiện thực hóa cam kết Net Zero 2050. Kinh tế xanh không còn là lý thuyết, mà đã trở thành động lực tăng trưởng thực sự, góp phần quan trọng vào mục tiêu dài hạn, tiến gần hơn với các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.

Ngày 4/9/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1894/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam giai đoạn 2025-2030”. Đây là một văn kiện chiến lược đặc biệt.

Chương trình tập trung mở rộng thị trường hàng hóa và dịch vụ môi trường, từ công nghệ xử lý chất thải (nước thải đô thị/công nghiệp, chất thải rắn, khí thải) đến sản phẩm thân thiện với môi trường (vật liệu tái chế, năng lượng tái tạo, nhựa sinh học, hệ thống quan trắc); nhấn mạnh việc rà soát, hoàn thiện danh mục công nghệ cụ thể, nâng cao chất lượng sản phẩm nội địa để doanh nghiệp Việt cạnh tranh toàn cầu, đồng thời thúc đẩy chuỗi cung ứng xanh qua các khu/cụm công nghiệp tái chế. Đây không chỉ là mở rộng thị trường, mà còn xây dựng hệ sinh thái đa dạng, biến môi trường thành tài sản quốc gia, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh.

Về đầu tư, năm 2024 chứng kiến dòng vốn xanh từ khu vực tư nhân đạt 161 triệu USD, tăng vọt so với các năm trước, chủ yếu “chảy” vào năng lượng tái tạo và nông nghiệp bền vững. Điều này phản ánh sức hút của Việt Nam với nhà đầu tư quốc tế, nhờ khung pháp lý rõ ràng hơn cho trái phiếu xanh và quỹ đầu tư bền vững.

Đặc biệt, trong Báo cáo Chỉ số Hiệu suất Biến đổi Khí hậu (CCPI) 2025, Việt Nam đã vươn lên vị trí 21 toàn cầu, tăng 6 bậc so với năm trước. Đây là minh chứng rõ nét những tiến bộ vượt bậc trong phát triển năng lượng tái tạo và thực thi chính sách khí hậu của Việt Nam.

Tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng sản lượng điện đang ở mức khoảng 16-17% cho 9 tháng đầu năm 2025 với xu hướng tăng dần nhờ sự bùng nổ của các dự án điện gió ngoài khơi và mặt trời quy mô lớn.

Tôi cũng cho rằng, việc ứng dụng công nghệ số như trí tuệ nhân tạo và IoT vào giám sát môi trường là chìa khóa để quản lý hiệu quả tài nguyên và phát hiện sai phạm kịp thời.

Hội Kinh tế môi trường Việt Nam với 25 năm phát triển là cầu nối giữa kinh tế và môi trường, đã khẳng định vai trò tổ chức xã hội - nghề nghiệp phi chính phủ trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh và bền vững.

Tuy nhiên, sự bền vững thực sự chỉ đến khi toàn xã hội, từ doanh nghiệp tiên phong trong công nghệ xanh, chính quyền địa phương thực thi chính sách, đến cộng đồng với ý thức “sống xanh” cùng chung tay hành động và duy trì. Chỉ khi hợp lực, chúng ta mới biến cam kết Net Zero thành hiện thực, kiến tạo một Việt Nam thịnh vượng và bền vững cho thế hệ mai sau.

Theo bà, kinh tế xanh có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh mới, khi Việt Nam hướng tới tăng trưởng GDP 8% năm 2025 và vượt 10% giai đoạn 2026-2030, đồng thời phải đối mặt với thách thức biến đổi khí hậu như lũ lụt, hạn hán và suy thoái tài nguyên?

GS.TS Nguyễn Thị Doan:Trong bối cảnh hiện nay, kinh tế xanh không còn là lựa chọn mà là điều kiện sống còn cho sự thịnh vượng của dân tộc.

Nếu 5 năm trước, tôi định nghĩa kinh tế xanh là sự hài hòa giữa tăng trưởng và bảo vệ môi trường, thì nay khái niệm kinh tế xanh cần mở rộng hơn nữa.

Mọi hoạt động kinh tế xanh từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng đều phải hướng đến thiết kế để tái tạo và bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên, bảo vệ môi trường sống trong sạch. Nó không chỉ dừng ở giảm thiểu tác động tiêu cực, mà còn tạo ra giá trị tích cực cho môi trường, như khôi phục hệ sinh thái (rừng ngập mặn, đất ngập nước) và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn (tái chế, tái sử dụng).

Điều này càng cấp thiết khi Việt Nam đặt mục tiêu GDP tăng 8% năm 2025, vượt 10% từ 2026-2030 và cam kết Net Zero 2050.

Tháng 7/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 21/2025/QĐ-TTg quy định tiêu chí môi trường và xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh, yêu cầu đánh giá toàn diện tác động sinh thái từ vòng đời sản phẩm đến khả năng tái chế. Những tiêu chí này không kìm hãm sự tăng trưởng, mà tạo ra lợi thế cạnh tranh khi doanh nghiệp xanh dễ dàng tiếp cận thị trường EU qua CBAM (Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon).

Cùng với đó, theo Chiến lược do Thủ tướng Chính phủ đề ra, tín dụng xanh sẽ chiếm 10% tổng dư nợ vay đến cuối năm 2025, khuyến khích ngân hàng chuyển vốn vào dự án carbon thấp.

Có thể thấy ý nghĩa lớn nhất của kinh tế xanh là chúng ta phải biến thách thức thành cơ hội: Từ biến đổi khí hậu là rủi ro phải tạo thành động lực đổi mới mạnh mẽ như tạo ra nông nghiệp thông minh chống lũ, hay du lịch sinh thái bảo vệ tài nguyên. Trong tiến trình toàn cầu hóa, kinh tế xanh giúp Việt Nam khẳng định vị thế, không chỉ tăng GDP mà còn nâng cao chất lượng sống, đảm bảo tăng trưởng và không đánh đổi tương lai.

Hội Khuyến học Việt Nam có thể phối hợp với VIASEE tổ chức những chương trình như: “Học bổng xanh VIASEE” hỗ trợ sinh viên nghiên cứu kinh tế sinh thái; hay hội thảo “Lãnh đạo xanh”, trang bị kỹ năng cho cán bộ địa phương, thúc đẩy tư duy và hành động bền vững.

Tại COP29 năm 2024, Việt Nam đã kêu gọi các nước phát triển thực hiện cam kết tài chính khí hậu, có thể thấy chúng ta đóng vai trò đặc biệt trong diễn đàn quốc tế. Theo bà, Việt Nam cần làm gì để nâng cao vị thế trong cuộc đua kinh tế xanh toàn cầu?

GS.TS Nguyễn Thị Doan:COP29 tại Baku, Azerbaijan năm 2024 là dấu mốc quan trọng, nơi Việt Nam khẳng định vai trò tiên phong trong khu vực các quốc gia đang phát triển dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu.

Chúng ta không chỉ kêu gọi các nước phát triển thực hiện cam kết tài chính khí hậu (ít nhất 100 tỷ USD mỗi năm theo thỏa thuận từ COP15), mà còn đóng góp ý kiến quan trọng vào Tuyên bố Baku về tài chính khí hậu, nhấn mạnh nguyên tắc “trách nhiệm chung nhưng khác biệt” (Common but Differentiated Responsibilities - CBDR). Việt Nam cũng đã chia sẻ kinh nghiệm thành công trong giảm phát thải từ rừng ngập mặn và đẩy mạnh năng lượng tái tạo, khẳng định ngoại giao xanh chủ động.

Để nâng cao vị thế trong cuộc đua kinh tế xanh toàn cầu, tôi cho rằng Việt Nam cần tập trung vào ba trụ cột chiến lược:

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý xanh: Dự thảo Luật Kinh tế Xanh dự kiến trình Quốc hội vào năm 2026 cần tích hợp các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 14001 về quản lý môi trường. Đồng thời, các văn bản hướng dẫn Luật Đất đai 2024 và Luật Tài nguyên Nước 2023, được ban hành năm 2024, cần được triển khai mạnh mẽ để quản lý tài nguyên hiệu quả, giảm xung đột giữa phát triển và bảo vệ môi trường.

Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc tế: Việt Nam cần tận dụng các diễn đàn như ASEAN+3, G20 và Quan hệ Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) để thu hút FDI xanh và công nghệ tiên tiến. Việc hợp tác với EU, thông qua Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon (CBAM), sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Thứ ba, đầu tư vào con người và nâng cao nhận thức cộng đồng: Đào tạo đội ngũ chuyên gia về kinh tế xanh và công nghệ carbon thấp là yếu tố then chốt. Các chương trình giáo dục môi trường cần được mở rộng, từ trường học đến cộng đồng, để xây dựng ý thức “sống xanh” và “tư duy xanh”. Các sáng kiến như thí điểm “Thành phố xanh” tại Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh năm 2025, “Trường học xanh” tại Đại học Trà Vinh là bước đi cụ thể, hướng tới mô hình đô thị bền vững.

Tôi tin rằng Việt Nam không chỉ theo kịp mà còn có thể vươn lên tốp đầu ở khu vực trong kinh tế xanh, biến thách thức biến đổi khí hậu thành cơ hội để phát triển bền vững, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

GS.TS Nguyễn Thị Doan: VIASEE cần tiên phong trong “dẫn dắt đổi mới xanh”.

GS.TS Nguyễn Thị Doan: VIASEE cần tiên phong trong “dẫn dắt đổi mới xanh”.

Giáo dục là nền tảng thay đổi bền vững

Với tinh thần “kinh tế vì môi trường” mà Hội Kinh tế môi trường Việt Nam đã tiên phong trong 25 năm qua, bà kỳ vọng Hội sẽ có những đột phá gì trong kỷ nguyên mới?

GS.TS Nguyễn Thị Doan:Hội Kinh tế môi trường Việt Nam với 25 năm phát triển là cầu nối giữa kinh tế và môi trường, đã khẳng định vai trò tổ chức xã hội - nghề nghiệp phi chính phủ trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh và bền vững. Trong kỷ nguyên chuyển đổi số và kinh tế tuần hoàn, tôi kỳ vọng VIASEE sẽ tạo ra những đột phá trong hành trình hướng tới Net Zero 2050 của Việt Nam.

VIASEE cần tiên phong trong “dẫn dắt đổi mới xanh” như nghiên cứu liên ngành, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn cho ngành nhựa, dệt may và nông nghiệp bền vững; kết nối hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ carbon thấp sẽ giúp doanh nghiệp Việt nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng các tiêu chuẩn toàn cầu như CBAM của EU.

Đồng thời VIASEE cũng có thể xây dựng nền tảng kết nối số trở thành nơi các doanh nghiệp, chuyên gia và nhà đầu tư chia sẻ kinh nghiệm, tiếp cận trái phiếu xanh và hòa nhập chuỗi cung ứng bền vững theo tiêu chuẩn ESG.

Tôi cũng mong muốn VIASEE lan tỏa giáo dục và vận động cộng đồng với các chương trình đào tạo “lãnh đạo xanh” và lồng ghép giáo dục môi trường vào cộng đồng. Đồng thời, tích cực phản biện chính sách, thúc đẩy cơ chế thị trường carbon và góp phần cùng Bộ Nông nghiệp và Môi trường thực thi cam kết quốc tế.

Với vai trò Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, bà có định hướng và kỳ vọng gì về việc phối hợp với VIASEE cũng như các ban ngành, địa phương trong giáo dục môi trường và khuyến học xanh kỷ nguyên mới?

GS.TS Nguyễn Thị Doan:Tôi tin giáo dục là nền tảng thay đổi bền vững. Chiến lược “Khuyến học xanh” mà chúng tôi thúc đẩy không chỉ là tuyên truyền kiến thức môi trường, mà còn nuôi dưỡng trách nhiệm, sáng tạo và hành động để tạo ra môi trường xanh, môi trường lành mạnh, đầm ấm, đoàn kết. Chúng tôi phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng nhà trường xanh, phát triển bền vững; thúc đẩy tư duy xanh, lối sống xanh, kỹ năng xanh trong giáo viên, phụ huynh và học sinh.

Hội Khuyến học Việt Nam có thể phối hợp với VIASEE tổ chức những chương trình như: “Học bổng xanh VIASEE” hỗ trợ sinh viên nghiên cứu kinh tế sinh thái; hay hội thảo “Lãnh đạo xanh”, trang bị kỹ năng cho cán bộ địa phương, thúc đẩy tư duy và hành động bền vững.

Hy vọng rằng, sự phối hợp giữa VIASEE và Hội Khuyến học Việt Nam sẽ mang đến nội dung chuyên sâu, thực tiễn, góp phần nuôi dưỡng thế hệ trẻ có trách nhiệm với hành tinh, kiến tạo một Việt Nam xanh và thịnh vượng.

Xin cảm ơn GS.TS Nguyễn Thị Doan!

Bảo Loan (Thực hiện)

Nguồn Kinh tế Môi trường: https://kinhtemoitruong.vn/gsts-nguyen-thi-doan-viasee-can-tien-phong-dan-dat-doi-moi-xanh-103541.html