Hà Nội có thêm 9 Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia
Với việc có thêm 9 Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia, Hà Nội đang khẳng định là địa phương sở hữu nhiều di sản có giá trị, đồng thời nêu cao trách nhiệm trong việc giữ gìn và bảo vệ di sản của dân ta.

Lễ hội Đền Sái. (Ảnh: Nguồn Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội)
Hà Nội vừa có thêm 9 di sản văn hóa được đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia. Trong số này, có 6 di sản thuộc loại hình lễ hội truyền thống, 1 di sản thuộc loại hình nghề thủ công truyền thống và 2 di sản thuộc loại hình tri thức dân gian.
Chín di sản văn hóa được ghi danh lần này gồm có: Hội hát Chèo Tàu Tổng Gối (xã Tân Hội, huyện Đan Phượng - nay là xã Ô Diên); Hội làng La Phù (xã La Phù, huyện Hoài Đức - nay là xã An Khánh); Lễ hội chùa Đồng Bụt (xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai - nay là xã Kiều Phú); Lễ hội chùa Nành (xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm - xã Phù Đổng); Lễ hội đền Sái (xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh - nay là xã Thư Lâm); Lễ hội đình Vòng (phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân - nay là phường Khương Đình); Nghề làm bánh cuốn Thanh Trì (phường Vĩnh Hưng); Tri thức chế biến và thưởng thức Chả cá Lã Vọng (Hà Nội); Tri thức nấu cỗ Bát Tràng (xã Bát Tràng).
1. Hội hát Chèo Tàu Tổng Gối
Chèo Tàu Tổng Gối không thuộc hệ thống những làn điệu chèo truyền thống mà là nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng đất xã Tân Hội, huyện Đan Phượng (cũ), Hà Nội, có lề lối hát riêng, văn hóa riêng.
Hội hát chèo Tàu Tổng Gối là loại hình diễn xướng dân gian độc đáo gồm các phần hát trình, hát thuyền và hát bỏ bộ, với 20 làn điệu cổ và hai nhân vật chính là “tàu” và “tượng” hát đối đáp ca ngợi, tôn vinh công lao tướng Thành hoàng Tổng Gối Văn Dĩ Thành- người có công chống giặc Minh, giữ yên bờ cõi, được nhân dân suy tôn làm Thành hoàng làng và lập miếu thờ.

Lễ hội hát Chèo tàu Tổng Gối. (Ảnh: Nguồn Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội)
Việc tổ chức Hội hát chèo Tàu nhằm gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa của địa phương, phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, thiết thực phục vụ nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân trên địa bàn.
2. Hội làng La Phù
Hàng năm, cứ vào ngày 13 tháng Giêng, lễ rước lợn La Phù (huyện Hoài Đức, Hà Nội) lại tổ chức để tưởng nhớ công ơn thành hoàng làng Tĩnh Quốc Tam Lang thời Hùng Duệ Vương thứ 6.
Đây là nét đẹp văn hóa tâm linh của người dân địa phương nhằm tái hiện lại những hình ảnh mà Tĩnh Quốc Tam Lang khao quân lúc bấy giờ cũng như để tưởng nhớ tới công lao to lớn của ông trong sự nghiệp đấu tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Lễ hội rước “ông lợn” là dịp để mỗi người dân xã La Phù cũng như du khách trên mọi miền đất nước cảm nhận sâu sắc hơn về những giá trị văn hóa truyền thống, nét đẹp quê hương, khơi dậy lòng yêu nước, tưởng nhớ công đức của các bậc tiền nhân từ đó phát huy tinh thần tự tôn, tự lực, tự cường dân tộc, nâng cao ý thức gìn giữ, bảo tồn những giá trị di sản văn hóa quý báu của dân tộc.
3. Lễ hội chùa Đồng Bụt

Lãnh đạo xã Kiều Phú nhận Bằng chứng nhận cho Lễ hội chùa Đồng Bụt. (Ảnh: Nguồn Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội)
Đình Đồng Bụt thờ Tam Vị thành hoàng là Đệ Nhất Linh Khê Đại vương, Đệ Nhị Linh Khê Đại vương, Đệ Tam Linh Khê Đại vương.
Đình Đồng Bụt là một di tích gắn bó mật thiết với đời sống cư dân nơi đây. Ngôi đình mang trong mình những giá trị lịch sử, văn hóa, góp phần khẳng định bề dày truyền thống văn hóa, thể hiện ở một cơ cấu tổ chức làng xã hoàn chỉnh, với những thiết chế tốt đẹp còn lưu giữ lại đến hôm nay.
Lễ hội chùa Đồng Bụt diễn ra hàng năm tại di tích như: ngày sinh Thành hoàng 12/5 âm lịch, ngày hóa 10/7 âm lịch, ngày Hạ Điền 28/10 âm lịch, ngày Lễ Đại khánh -ngày Đinh tháng 2 và tháng 8 âm lịch… cũng là một hoạt động văn hóa dân gian hướng về nguồn cội, tưởng nhớ công lao của các vị Thần, Thành hoàng đối với nhân dân và cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi.
4. Lễ hội Chùa Nành
Chùa Nành còn được gọi là chùa Pháp Vân hay chùa Cả, tọa lạc tại làng Nành, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. Đây là một trong bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp lớn nhất ở miền Bắc Việt Nam, cùng với hệ thống chùa Dâu, chùa Keo và chùa Đậu. Từ ngày mùng 4 đến ngày mùng 6 tháng Hai âm lịch, người dân làng Ninh Hiệp (huyện Gia Lâm, Hà Nội) lại tưng bừng tổ chức lễ hội Chùa Nành - sự kiện mang đậm bản sắc văn hóa dân gian và tinh thần thượng võ, gắn liền với truyền thống trọng nghĩa khí, đề cao võ thuật của người dân nơi đây.
Lễ hội chùa Nành không chỉ là một sự kiện tâm linh mà còn là bức tranh sống động của văn hóa dân gian, là dịp để dân làng Ninh Hiệp cùng khách thập phương tìm về cội nguồn, tri ân tiền nhân và cầu mong một năm mới an lành, may mắn.
Trong lễ hội chùa Nành, “Cây phan” được dựng lên mang ý nghĩa sâu sắc và phản ánh sự sáng tạo, tinh thần đoàn kết của người dân làng Nành trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Điểm đặc trưng của lễ hội chính là chuỗi nghi lễ truyền thống được tổ chức nghiêm cẩn và giàu tính biểu tượng như lễ rước âm; lễ rước Phật, Thánh; lễ lục cúng, lễ tiến hương tiến hoa… đặc biệt là Lễ nâng cây phan, dựng cây phướn, lễ nhiễu xung quanh cây phướn. Tất cả đều là mạch nguồn kết nối quá khứ và hiện tại, giữ cho bản sắc làng quê Việt Nam không bị mai một theo thời gian.
5. Lễ hội đền Sái

Di tích Quốc gia Đền Sái.(Ảnh: Nguồn Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội)
Đền Sái là một cụm di tích gồm đền Sái, đình Thụy Lôi, đền thượng, đền Tiến sĩ Lê Tuấn Mậu nằm cạnh đỉnh Thất Diệu Sơn thuộc thôn Thụy Lôi, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Đền được cho là đang lưu giữ bản gốc tượng Đức Huyền Thiên Trấn Vũ. Lễ hội đền Sái diễn ra vào tháng 11 âm lịch hàng năm; điểm nhấn là tục rước vua giả. Vào ngày 11 tháng giêng âm lịch hàng năm, dân làng lại chọn ra một người có đủ tài đức và có uy tín đóng vai vua và các quan tứ trụ cận vệ như Trấn thủ, Tán lý, Đề lĩnh, Thự vệ để làm lễ rước; thay mặt vua thực hành nghi vệ Thiên tử, làm cho mạch nước bền dân cư yên ổn mãi mãi.
Ngày nay, tục rước vua giả vẫn còn được duy trì; người được chọn làm vua phải là các cụ cao niên ngoài 70 tuổi trong làng; khỏe mạnh, còn đủ cụ ông, cụ bà; chúa và các quan đều là những cụ cao niên, có đức độ, có uy tín trong dân. Đây được xem là một lễ hội đặc sắc và độc đáo của nước ta.
6. Lễ hội Đình Vòng
Lễ hội Đình Vòng đã có từ lâu đời, trải qua các triều đại, hàng năm được tổ chức vào ngày 2 tháng 2 (âm lịch) để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn các Thành Hoàng làng, tổ tiên các dòng họ có công với quê hương, đất nước, giáo dục con cháu truyền thống "uống nước, nhớ nguồn". Theo các tư liệu, niên đại ra đời của Đình Vòng có thể xác định vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 16-17), sở dĩ có tên gọi Đình Vòng vì Đình được xây dựng trên trục đường Đông-Bắc.
Lễ hội đình Vòng vẫn giữ được nhiều tục lệ truyền thống, đặc biệt, dọc đường rước kiệu trở lại đình, mỗi nhà sẽ đem chiếu mới ra trải trước cổng để cả đoàn rước đi qua, sau đó sẽ đem dùng cho cả năm, coi đó là lộc may mắn.
7. Nghề làm bánh cuốn Thanh Trì

2. Lãnh đạo xã Vĩnh Hưng đón nhận Bằng chứng nhận cho nghề làm bánh cuốn Thanh Trì. (Ảnh: Nguồn Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội)
Làng Thanh Trì từ lâu gắn liền với nghề làm bánh cuốn truyền thống, món ăn quen thuộc trong đời sống của người Hà Nội. Bánh được làm từ gạo tẻ ngâm qua đêm, xay thành bột, tráng thành lớp mỏng, rắc hành phi. Bánh ăn nguội, không nhân, chấm nước mắm pha, dùng kèm chả quế hoặc chả viên. Cách chế biến này tạo nên hương vị đặc trưng, khác với nhiều loại bánh cuốn ở các địa phương khác. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, bánh cuốn Thanh Trì không chỉ là món ăn thường nhật của người dân thủ đô, mà còn là biểu tượng văn hóa ẩm thực, mang trong mình câu chuyện của sự khéo léo, kiên trì và tình yêu với nghề truyền thống. Nghề này không chỉ là nguồn kế sinh nhai mà còn là niềm tự hào, nét văn hóa đặc trưng của người dân nơi đây, được truyền nối qua nhiều thế hệ.
Việc ghi danh vào danh mục di sản quốc gia là cơ hội quan trọng để bảo tồn, tôn vinh và quảng bá rộng rãi hơn giá trị văn hóa, ẩm thực độc đáo của làng nghề. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để Hà Nội kết nối phát triển du lịch làng nghề, tạo sinh kế bền vững cho người dân và góp phần làm phong phú thêm bản sắc vùng đất ngàn năm văn hiến.
8. Chả cá Lã Vọng
Chả cá Lã Vọng được xem là biểu tượng ẩm thực Hà Nội, nguyên liệu được kết hợp từ cá lăng tươi, thì là, hành hoa và mắm tôm. Khi thưởng thức, miếng cá được nướng vàng ruộm ăn kèm bún, rau thơm và bánh đa nướng, tạo nên hương vị khó quên. Món ăn từng xuất hiện trong sách "1.000 nơi nên biết trước khi chết", lọt top 5 trong 10 điểm trải nghiệm ẩm thực toàn cầu. Năm 2016 chả cá Lã Vọng được CNN giới thiệu là một trong những món ngon nhất thế giới.
9. Tri thức nấu cỗ Bát Tràng

Mâm cỗ Bát Tràng - Tinh hoa ẩm thực truyền thống làng gốm. (Ảnh minh họa)
Nếu nhắc đến Bát Tràng, người ta thường nghĩ ngay đến gốm sứ - sản phẩm làm nên danh tiếng cả ngàn năm của ngôi làng ven sông Hồng. Bên cạnh nghề gốm, Bát Tràng còn gìn giữ một nét văn hóa tinh thần đặc biệt: cỗ truyền thống trong các dịp lễ, tết, giỗ chạp và sự kiện cộng đồng. Trong các gia đình khá giả xưa, mâm cỗ Tết thường là "cỗ bát trân" với 6 bát, 8 đĩa. Tên gọi này bắt nguồn từ quan niệm "trân" là món quý, tượng trưng cho sự sung túc, đủ đầy.
Không đơn thuần là mâm cơm sum họp gia đình, cỗ Bát Tràng là sự kết hợp hài hòa giữa ẩm thực, tín ngưỡng và mỹ cảm, phản ánh nếp sống, tư duy và bản sắc của cả cộng đồng làng nghề. Điểm nổi bật nhất của cỗ Bát Tràng chính là sự tỉ mỉ, tinh tế trong từng món ăn. Theo các nghệ nhân ẩm thực địa phương, mâm cỗ phải có sự cân đối âm dương, ngũ hành, màu sắc và hương vị. Món ăn không chỉ ngon mà còn phải đẹp mắt, trình bày hài hòa, tạo nên tổng thể mang tính nghệ thuật. Trong xu hướng phát triển du lịch trải nghiệm, cỗ Bát Tràng hứa hẹn trở thành sản phẩm du lịch độc đáo. Du khách đến làng gốm không chỉ được xem làm gốm, mua đồ gốm, mà còn có thể trải nghiệm chế biến và thưởng thức mâm cỗ truyền thống.
Chia sẻ về 9 Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia vừa được ghi danh, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội Bạch Liên Hương đánh giá cao tình cảm, tâm huyết, vun đắp, chung tay của chính quyền và Nhân dân các địa phương trong việc chăm lo, phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể của các loại hình lễ hội, nghề thủ công truyền thống trong kho tàng văn hóa của Thủ đô Hà Nội.
Bà Bạch Liên Hương mong muốn mọi người dân đều cảm nhận được tinh thần, tri thức, ý nghĩa, giá trị của 9 di sản được ghi danh vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. “Việc ghi danh không chỉ là tín hiệu vui với di sản, mà còn mở ra cơ hội quảng bá văn hóa, du lịch cho địa phương, giúp di sản đến gần hơn với công chúng. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với nhiệm vụ quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản; bảo đảm các di sản văn hóa phi vật thể được thực hành để hướng con người, cộng đồng tới các giá trị văn hóa tốt đẹp, gìn giữ bản sắc, hướng tới sự phát triển xã hội toàn diện”, bà Bạch Liên Hương bày tỏ.
Với việc có thêm 9 di sản phi vật thể cấp quốc gia, Hà Nội đang khẳng định là địa phương sở hữu nhiều di sản có giá trị, đồng thời cũng nêu cao trách nhiệm trong việc giữ gìn và bảo vệ di sản của dân ta./.