Hạ tầng, nhân lực và thể chế - ba rào cản lớn nhất trong chuyển đổi số khu vực công

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng và nhân lực, nhưng cũng mở ra cơ hội lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng dịch vụ công. Việt Nam có thể xây dựng một hệ thống chính phủ số hiệu quả, lấy người dân làm trung tâm, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong quản lý nhà nước.

Diễn đàn “Chuyển đổi số khu vực công - Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội”

Diễn đàn “Chuyển đổi số khu vực công - Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội”

Thách thức chuyển đổi số khu vực công

Phát biểu tại Diễn đàn “Chuyển đổi số khu vực công - Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội” diễn ra ngày 17/7, ông Phạm Mạnh Hùng - Phó Tổng Giám đốc VOV cho biết, khu vực công được xác định là người dẫn đường và là tiền đề vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua quá trình số hóa và thích ứng nhanh chóng. Chuyển đổi số trong khu vực công là một đột phá hàng đầu và là động lực chính để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, thúc đẩy kinh tế - xã hội và ngăn chặn nguy cơ tụt hậu.

Chuyển đổi số đã được Đảng, Chính phủ và Quốc hội xác định là một trong những động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều nhóm giải pháp đã được đề ra, tập trung vào phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, hướng tới mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia số ổn định và thịnh vượng.

Theo ông Nguyễn Mạnh Hùng, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã nhấn mạnh tầm quan trọng và cam kết chính trị đặc biệt cho mục tiêu này, khẳng định đây là đột phá hàng đầu, động lực chính. Sau Nghị quyết 57, các bộ, ngành đã ban hành nhiều đề án, chương trình hành động cụ thể để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy hành chính nhà nước.

"Tuy nhiên, việc triển khai quá trình chuyển đổi số trong khu vực công cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức về hạ tầng số. Đặc biệt là ở cấp cơ sở chưa đồng bộ dữ liệu, thiếu kết nối, thiếu chia sẻ giữa các cơ quan, bộ, ngành, địa phương, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, tâm lý e dè đổi mới ở một số nơi. Cùng với đó, hệ thống thể chế và chính sách pháp luật về chuyển đổi số còn chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ. Các quy định pháp lý liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân, an ninh mạng, định danh điện tử, chia sẻ tiếp nối dữ liệu giữa các hệ thống thông tin vẫn chưa đầy đủ và thống nhất", ông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết.

Chia sẻ về vấn đề này, ông Nguyễn Hữu Thái Hòa - Phó Viện trưởng Viện Trí Việt IVM/VUSTA, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, thách thức lớn nhất trong chuyển đổi số khu vực công là các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng công nghệ và nguồn lực. Nhiều cơ quan nhà nước vẫn sử dụng các hệ thống công nghệ cũ kỹ, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc tích hợp các giải pháp số hóa mới. Ví dụ, các hệ thống lưu trữ dữ liệu riêng lẻ, không tương thích, làm chậm quá trình chia sẻ thông tin.

Ngân sách dành cho chuyển đổi số thường bị giới hạn, đặc biệt ở các địa phương hoặc cơ quan cấp cơ sở. Việc triển khai hạ tầng như trung tâm dữ liệu, mạng lưới 5G, hoặc phần mềm quản lý đòi hỏi chi phí lớn, nhưng nguồn lực tài chính thường không đủ.

Đặc biệt, theo ông Hòa, việc thiếu một kiến trúc công nghệ thống nhất giữa các cơ quan dẫn đến khó khăn trong việc kết nối dữ liệu, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu dân cư, thuế, hoặc y tế, thiếu hụt nguồn lực công nghệ và nhân lực.

"Khu vực công thường gặp khó khăn trong việc thu hút và giữ chân nhân tài công nghệ do mức lương không cạnh tranh so với khu vực tư nhân. Các chuyên gia về trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, hoặc phân tích dữ liệu thường chọn làm việc cho các công ty công nghệ lớn", ông Hòa chia sẻ.

Xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc

Ông Chử Đức Hoàng - Chánh văn phòng Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) kiến nghị, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số quốc gia, Việt Nam đang tập trung vào việc xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển. Trong đó, việc hình thành các cơ chế thử nghiệm đóng vai trò then chốt, cho phép chúng ta kiểm tra và hoàn thiện các giải pháp số hóa trước khi triển khai rộng rãi.

Một ví dụ điển hình cho cơ chế thử nghiệm này là việc ứng dụng mạng xã hội số để triển khai các dịch vụ công hoặc thậm chí là vận hành một thành phố trên nền tảng số hoàn toàn mới. Đây là những "phòng thí nghiệm" thực tế, giúp chúng ta đánh giá hiệu quả, khắc phục hạn chế và từ đó hiện thực hóa toàn diện quá trình chuyển đổi số trong mọi hoạt động.

Sự quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước trong công cuộc chuyển đổi số được thể hiện rõ nét qua các nghị quyết quan trọng là Nghị quyết 52 về phát triển nhân lực, tập trung vào việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên số. Gần đây nhất là Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã được ban hành, khẳng định mạnh mẽ quyết tâm của tầng lớp lãnh đạo trong việc thực hiện chuyển đổi số.

Để cụ thể hóa những định hướng này, việc thể chế hóa các quy định pháp luật là vô cùng cần thiết. Nghị quyết 66 chính là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình này. Một trong những yếu tố cốt lõi để hiện thực hóa chuyển đổi số là việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu chuyên ngành đồng bộ, liên thông. Đây là "xương sống" để các dịch vụ công được vận hành trơn tru và hiệu quả.

Ông Chử Đức Hoàng chia sẻ, chuyển đổi số thành công đòi hỏi sự đầu tư mạnh mẽ vào con người và một niềm tin vững chắc vào đội ngũ. Nếu thiếu đi niềm tin, mọi nỗ lực sẽ trở nên vô nghĩa. Điều này đặc biệt đúng khi xây dựng đội ngũ công nghệ thông tin (IT) và chuyên gia – những nhân tố cốt lõi cho sự phát triển.

Để tối ưu hóa hiệu quả, các tổ chức nên cân nhắc áp dụng mô hình cấu trúc nhân sự tinh gọn và hiệu quả. Một đề xuất là mô hình 5% nhân sự tinh hoa, 20% nhân sự chất lượng cao và 70% nhân sự làm việc trong ngành. Đây là cơ hội để phát triển và nâng cao năng lực đội ngũ. Ngay cả các cấp lãnh đạo cũng cần tích cực trang bị thêm kiến thức và kỹ năng về công nghệ để dẫn dắt quá trình chuyển đổi này.

Theo ông Nguyễn Hữu Thái Hòa, cần tăng ngân sách cho việc nâng cấp cơ sở hạ tầng số, như trung tâm dữ liệu quốc gia và mạng 5G, đặc biệt ở các địa phương. Đồng thời xây dựng các chương trình đào tạo kỹ năng số cho cán bộ, công chức, hợp tác với các trường đại học và doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực công nghệ.

Việt Nam cần khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tham gia phát triển giải pháp số cho khu vực công, như ứng dụng AI, blockchain, hoặc IoT. Ngoài ra, cần triển khai các chiến dịch truyền thông để khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo các nền tảng dễ sử dụng và hỗ trợ đa ngôn ngữ.

Hải Yến

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/ha-tang-nhan-luc-va-the-che-ba-rao-can-lon-nhat-trong-chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-167444.html