Hai chiến lược giúp thơ Việt vươn tầm thế giới
Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn cho rằng hoạt động tái thiết đội ngũ phê bình thơ song song bồi dưỡng lực lượng dịch thuật thơ là điều cần thiết nếu muốn đưa thơ Việt phát triển ở quốc tế.
Tri Thức - Znews giới thiệu tham luận của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn - Trưởng Ban Nhà văn trẻ, Hội Nhà văn TP.HCM - về thơ Việt Nam từ năm 1975 đồng thời đề xuất chiến lược giúp “mở rộng biên giới thi ca”. Tham luận được trình bày trong hội thảo Tổng kết Văn học Việt Nam sau năm 1975, chủ đề “Thành tựu cơ bản của văn học Việt Nam sau năm 1975 - Diện mạo, khuynh hướng và thể loại”, do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức vào sáng 16/9 tại TP.HCM.
Nhìn lại 50 năm thống nhất đất nước, không ai phủ nhận sự phong phú và đa dạng của đời sống thi ca. Ngoài nỗ lực đưa Ngày Thơ Việt Nam trở thành lễ hội văn hóa thường niên trên quy mô toàn quốc, việc cởi mở về thủ tục xuất bản cũng giúp nhu cầu in thơ của mỗi cá nhân được dễ dàng hơn, thuận lợi hơn. Chỉ cần căn cứ hàng nghìn tập thơ ra đời mỗi năm và hàng trăm câu lạc bộ thơ sinh hoạt rộn ràng khắp cả nước, có thể khẳng định thơ Việt đã phát triển mạnh mẽ theo diện rộng. Thế nhưng, chiều sâu và chiều cao của thơ Việt, vẫn là một ẩn số cần được nhận diện và suy ngẫm một cách thấu đáo hơn.
Thơ Việt đã chứng minh được tính hữu ích với người Việt hôm nay. Thi ca để ngâm vịnh, thi ca để xướng họa, thi ca để giao lưu, thậm chí thi ca có tác dung như một bài vận động thư giãn cho người bận rộn, như một loại biệt dược dưỡng sinh cho người cao niên. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho một cộng đồng biết tôn trọng sở thích riêng tư của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, tính chuyên nghiệp của thơ Việt không thể trông cậy hoàn toàn vào dòng chảy thi ca tồn tại như một phương pháp thể dục tinh thần của trào lưu người người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Dù có ý nghĩa nhất định, thì “xã hội hóa thi nhân” cũng không khác gì “quần chúng hóa tiến sĩ” và “bình dân hóa hoa hậu”. Một cộng đồng văn minh, không thể xem trình độ của tiến sĩ và đẳng cấp của hoa hậu chỉ na ná một trò tầm phào, một thứ mua vui. Vì vậy, vai trò của những người sáng tạo thơ Việt cũng cần đặt trong một hệ sinh thái bền vững hơn, khắt khe hơn.
Nhà phê bình đi đâu?
50 năm non sông liền một dải, kinh tế đất nước được cải thiện từng ngày, giới cầm bút cũng không còn quan niệm cứng nhắc lấy tiêu chí phản ánh hiện thực làm kỹ thuật sáng tạo tối ưu và độc tôn. Nhiều lý thuyết nước ngoài đã được thu nạp, nhiều dòng chảy ngoại vi đã được dung hòa, nhưng thơ Việt vẫn loay hoay giữa những giải thưởng trao tặng định kỳ và những hiện tượng sớm nở tối tàn. Chỉ cần quan sát trực diện thị trường thơ Việt, không khó để phát hiện, bên cạnh những thành tựu được kế thừa từ thế hệ nhà thơ tham gia hai cuộc kháng chiến vệ quốc rất đáng tự hào, chúng ta đang đối mặt một thực trạng, đó là sản phẩm nội địa thì đơn điệu và sản phẩm xuất khẩu thì thưa vắng.
Nguyên nhân nào dẫn đến sự trì trệ của thơ Việt, khi chúng ta vẫn có nhiều tài năng thi ca? Câu trả lời nằm ở hai hạn chế cốt lõi: phê bình thơ và dịch thuật thơ.
Chế độ bao cấp đã được xóa bỏ, chỉ còn vài cán bộ nghiên cứu ở Viện Văn học và cán bộ sáng tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, hầu hết tác giả đều tự bươn chải để mưu sinh và viết lách. Đời sống dân sinh đã thay đổi, nhưng nền văn học không có một chiến lược phát triển tương ứng. Các cơ quan báo chí cũng bận bịu giải quyết bài toán tự chủ tài chính, không còn ưu tiên cho diễn đàn văn chương. Thơ xuất hiện trên báo chí phổ thông như một món trang sức khích lệ, còn những tạp chí văn nghệ cứ teo tóp dần. Không khí phê bình sôi nổi nhất sau tiếng kẻng Đổi Mới là cuộc tranh luận về Bóng chữ của Lê Đạt và Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng vào đầu thập niên cuối cùng thế kỷ 20.
Các nhà phê bình thơ đã đi đâu mất dạng? Xin thưa, họ vẫn xuất hiện trong dáng vẻ lặng lẽ và nghiêm ngắn ở các tọa đàm, các hội thảo. Họ tương tác với thơ bằng những ngôn từ uyển chuyển và khéo léo, nhằm tránh mọi nguy cơ va chạm “thêm thù bớt bạn”. Họ cũng chộn rộn mưu sinh, nên họ không đầu tư đọc và viết kỹ lưỡng về một tập thơ nào, về một gương mặt thơ nào. Họ ngại nói thật, họ ngại mất lòng đồng nghiệp, khi thù lao một bài phê bình thơ quá ít ỏi so với vật giá leo thang. Không ai nỡ trách giận các nhà phê bình thơ, giữa cộng đồng sôi sục danh lợi, không thể bắt buộc cá nhân nào phải hy sinh các mối quan hệ mang lại vật chất, không thể bắt buộc cá nhân nào phải chịu đựng sự cô độc vì thị phi bủa vây.
Dù mỗi lần trao đổi chung quanh một vấn đề thi ca, các nhà phê bình thường xuyên thiếu một chút bình tĩnh, nhưng vẫn tạo ra không khí học thuật sôi nổi và gợi mở nhiều sắc thái thẩm mỹ tiếp nhận. Không có sự song hành của nhà phê bình đích thực, thơ Việt rơi vào vùng sáng tối miễn cưỡng vàng thau lẫn lộn. Thơ in rất nhiều mà người đọc rất ít. Nhà thơ in thơ, có thể chấp nhận tốn kém tiền bạc, nhưng làm sao chấp nhận tri âm chìm khuất? Không gian dành cho thơ càng ngày càng chật hẹp. Báo chí chỉ đăng những bài thơ nhẹ nhàng du dương, còn những bài thơ nhói buốt về thế sự ngổn ngang và những bài thơ day dứt về nhân phẩm hao hụt, vẫn không có điều kiện được trình bày một cách trang trọng. Thơ Việt tạm thỏa mãn với những niềm riêng nho nhỏ thầm kín, những vần điệu chăm chút cẩn thận, những tâm tư gửi gắm rụt rè… Những nhà thơ sốt ruột với cách tân thi pháp, những nhà thơ quặn thắt với mệnh kiếp lênh đênh, cứ dần mờ mịt áo gấm đi đêm.
Nếu chịu khó đọc, gạn lọc bớt những giọng điệu thù tạc và những câu chữ đong đưa, các khuynh hướng thơ Việt 50 năm qua đã nảy nở nhiều hiện tượng thú vị như Bùi Chí Vinh, Inrarasa, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh, Nguyễn Bảo Chân, Lãng Thanh, Trần Lê Khánh, Trần Đức Tín… Thật đáng tiếc, vẫn chưa có công trình tử tế nào soi rọi những hiện tượng trên, để công chúng mường tượng đầy đủ ưu điểm và khuyết điểm của từng tác giả, để công chúng thấy được rõ ràng sự vận động sáng tạo không ngừng của thơ Việt hiện đại.
Hai điều cần làm sớm
Khi không có nhà phê bình góp phần định vị giá trị, thì việc chuyển ngữ thơ Việt để giới thiệu với bạn bè quốc tế cũng đầy gian nan. Ngoài tác phẩm của một số danh nhân được tổ chức dịch thuật công phu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu… thì hầu hết nhà thơ hôm nay chủ yếu tận dụng kết nối cá nhân để đưa thơ mình ra thế giới. Sự cố gắng phi thường của một thiểu số nhà thơ rất đáng khâm phục, nhưng chất lượng bản gốc và bản dịch vẫn không lấy gì đảm bảo chất lượng thơ Việt thời hội nhập. Bởi lẽ, một tác giả chưa có tính đại diện cho phong vị một xứ sở thì khó lòng chinh phục thiên hạ xa xôi.
Sau một phần tư chặng đường của thế kỷ 21, thơ Việt đang có những tác giả trẻ có khả năng sáng tác bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh. Những công dân toàn cầu này không quá vất vả để tìm kiếm công chúng của họ trong thời đại công nghệ số, mà không còn e ngại rào cản ngôn ngữ. Tuy nhiên, diện mạo của một dân tộc có truyền thống thi ca không thể chờ đợi hành trình may rủi của vài trường hợp đơn lẻ. Muốn khẳng định tầm vóc thơ Việt trên bản đồ nhân loại, phải có một chiến lược quốc gia mở rộng biên giới thi ca.
Không thể nào có cấu trúc công nghiệp văn hóa, nếu không có sự quan tâm đúng mức với bộ môn nghệ thuật nền tảng là văn học. Nhiều quốc gia ở châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đều đã xây dựng những quỹ hỗ trợ phát triển văn học, trong đó dành một phần kinh phí không nhỏ cho việc nghiên cứu, phê bình và dịch thuật thi ca. Đất nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới sẽ ra sao, nếu trong hành trang không có tác phẩm thi ca chất chứa vui buồn người Việt? Thế giới đã biết đến người Việt qua hạt gạo Việt, cà phê Việt thì chắc chắn thế giới càng mong thấu hiểu người Việt qua thi ca Việt.
Có lẽ không quá chủ quan để nhắc lại lần nữa, 50 năm qua thơ Việt liên tục có thêm nhiều tài năng thi ca. Chỉ riêng những nhà thơ đã ổn định sự nghiệp như Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo, Ý Nhi, Thi Hoàng, Thanh Thảo, Nguyễn Duy… đều xứng đáng là những đại sứ quảng bá tâm hồn Việt, nếu tác phẩm của họ được tuyển chọn và dịch thuật sang các ngôn ngữ khác.
Cho nên, để thơ Việt thoát khỏi thực trạng tù đọng và tích cực nhuận sắc cho bản lĩnh văn hóa Việt, cần tiến hành song song hai kế hoạch. Thứ nhất, tái thiết đội ngũ phê bình thơ. Thứ hai, bồi dưỡng lực lượng dịch thuật thơ. Tất nhiên, muốn huy động nhân lực để triển khai hai kế hoạch ấy, cần có chính sách đãi ngộ hợp lý, chứ không thể dựa vào ý chí và khẩu hiệu.
Nguồn Znews: https://znews.vn/hai-chien-luoc-giup-tho-viet-vuon-tam-the-gioi-post1585693.html