Tàu tuần dương Moskva sở hữu kho vũ khí với 120 tên lửa các loại đã chìm xuống Biển Đen, trong số này có hệ thống tên lửa phòng không trên hạm S-300F cùng với 64 quả tên lửa.
Việc soái hạm Moskva bị chìm là tổn thất lớn, đặc biệt về mặt hình ảnh đối cũng như khả năng phòng thủ đường không tầm xa của Hạm đội Biển Đen, Nga.
S-300F là biến thể phòng không hải quân của hệ thống phòng không mặt đất S-300 nổi tiếng.
S-300F Fort (định danh NATO là SA-N-6, hậu tố F cho Flot, tiếng Nga có nghĩa hạm đội) được giới thiệu năm 1984 là phiên bản đầu tiên trang bị trên tàu thủy của hệ thống S-300P do Altair phát triển với loại tên lửa 5V55RM.
Tầm xa chiến đấu của tổ hợp là 7–90 km, độ cao chiến đấu 25,000 m và tốc độ tối đa của mục tiêu lên tới Mach 4. Đầu chiến đấu có khối lượng 133 kg, động cơ nhiên liệu rắn.
Ban đầu S-300F được trang bị cho ba tàu tuần dương tên lửa năng lượng hạt nhân Project 1144 Orlan (tên NATO: lớp Kirov) và bốn tàu tàu tuần dương thông thường Project 1164 Atlant 116 (tên NATO: lớp Slava), chiếc soái hạm Moskva thuộc lớp Slava.
Bắt đầu từ năm 1977, hệ thống đã được thử nghiệm trên tàu Azov, chiếc tàu tuần dương duy nhất của tàu lớp Project 1134BE Berkut (tên NATO: lớp Kara).
Tên lửa được giữ trong 8 (đối với tàu lớp Slava) hay 12 (đối với tàu lớp Kirov) cụm bệ phóng dưới boong tàu, mỗi cụm bệ phóng có 8 ống phóng.
Phiên bản xuất khẩu của hệ thống phòng không S-300 F được gọi là S-300F Rif. Trung Quốc có nhập khẩu biến thể này.
Hai hệ thống Rif-M đã được Trung Quốc mua năm 2002 và lắp đặt trên các tàu khu trục tên lửa phòng không có điều khiển Type 051C mang số hiệu 115 và 116.
Mỗi tàu khu trục Type 051C của Trung Quốc được trang bị 48 tên lửa của hệ thống S-300FM Rif-M.
S-300F sử dụng các đài radar kiểu TOP SAIL hay TOP STEER, TOP PAIR và 3R41 Volna (TOP DOME) và dẫn đường điều khiển với một phương thức dẫn đường radar bán chủ động (SARH) giai đoạn cuối. Từ S-300F, Nga đã cải tiến lên thành S-300FM.
S-300FM Fort-M (định danh NATO: SA-N-20) là phiên bản mới nhất chỉ được lắp đặt trên tàu tuần tiễu lớp Kirov RFS Pyotr Velikiy và sử dụng loại tên lửa 48N6 mới.
S-300FM Fort-M được giới thiệu năm 1990 và tăng tốc độ tên lửa lên xấp xỉ Mach 6 với tốc độ tiếp chiến mục tiêu tối đa lên tới Mach 8.5, tăng kích thước đầu đạn lên 150 kg.
Các tên lửa mới cũng sử dụng biện pháp dẫn đường tối tân và có khả năng ngăn chặn các tên lửa đạn đạo tầm ngắn. Tầm xa tác chiến hiệu quả từ 5-150 km, trần bay tác chiến từ 10-27.000 m.
Tuần dương hạm Moskva được trang bị 64 tên lửa S-300F bố trí trong 8 cụm phóng với 8 tên lửa mỗi cụm.
S-300F sử dụng radar kiểu TOP DOME, có khả năng phát hiện mục tiêu từ khoảng cách 500 km.
Tên lửa được dẫn hướng đến mục tiêu theo công nghệ "TVM" (bám theo đạn). Cảm biến trên tên lửa sẽ cung cấp tham số mục tiêu về radar điều khiển hỏa lực thông qua liên kết dữ liệu uplink/downlink.
Sau đó, trung tâm điều khiển sẽ gửi lệnh dẫn hướng cho tên lửa đánh chặn mục tiêu.
Công nghệ dẫn hướng TVM mang lại khả năng đánh chặn mục tiêu với độ chính xác cao.
Bên cạnh đó, do tên lửa mang theo đầu đạn phân mảnh nặng tới 150 kg mà khi nổ tạo ra vùng hủy diệt khá lớn.
Giới quân sự thế giới đánh giá, S-300F và S-300FM là hai trong số những hệ thống phòng không trên tàu chiến mạnh nhất thế giới hiện nay.
Việc soái hạm Moskva bị chìm mang theo hệ thống S-300F với 64 tên lửa phòng không là một tổn thất lớn, khiến Nga mất đi phần lớn khả năng phòng không tầm xa để bảo vệ Hạm đội Biển Đen.
Việt Hùng