Hàng chục nghìn hộ dân phía Nam 'khát' nước sạch
Dù nhiều công trình thủy lợi đã giúp kiểm soát xâm nhập mặn và giảm thiểu thiệt hại, nhưng tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) vẫn còn hàng chục nghìn hộ dân chưa thể tiếp cận nguồn nước sạch tập trung.
Ngày 16/10, tại TPHCM, Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”.

Tình trạng thiếu nước sạch đang diễn ra phổ biến tại nhiều địa phương. Ảnh: Tạp chí nước
Tại diễn đàn, ông Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, cho biết, Viện đã xây dựng đề án phòng, chống sạt lở, sụt lún và xâm nhập mặn cho ĐBSCL là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Nhờ hệ thống công trình thủy lợi được đầu tư, hiện xâm nhập mặn đã được kiểm soát trong phạm vi 40 km từ cửa biển, giảm rõ rệt so với các năm 2015 – 2016 khi mặn từng xâm nhập sâu từ 60 – 70 km. Cùng với đó, công tác dự báo và điều hành nguồn nước kịp thời giúp thiệt hại giảm mạnh, từ khoảng 200.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt giai đoạn 2015 – 2016 giảm còn 76.000 hộ trong giai đoạn 2023 – 2024.
Theo ông Hoằng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai các dự án cấp nước sạch tại 4 tỉnh ĐBSCL. Tuy nhiên, việc đầu tư ở những khu vực này còn gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn nước ngọt, chi phí cao và dân cư phân tán.
“Hiện còn khoảng 53.500 hộ dân không thể cấp nước tập trung, buộc phải tính đến các giải pháp dự trữ nước tại hộ hoặc mô hình cấp nước phi tập trung” - ông Hoằng cho hay.
Ông Hoằng kiến nghị Bộ tiếp tục quan tâm, tăng cường chính sách hỗ trợ để mở rộng mạng lưới cấp nước sạch nông thôn, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 có 80% hộ dân nông thôn được tiếp cận nguồn nước an toàn.
Ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, nhận định công tác cấp nước nông thôn tại ĐBSCL vẫn còn nhiều bất cập trong quy hoạch, quản lý và giám sát nguồn nước.
Theo ông Mạnh, nhiều địa phương chưa có quy hoạch tổng thể, trong khi tốc độ đô thị hóa nhanh khiến hệ thống cấp nước không theo kịp nhu cầu. Một số tỉnh như Cà Mau, Bến Tre, Hậu Giang đã đầu tư hồ chứa phân tán nhưng quy mô nhỏ, chưa đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt của người dân. Công tác xã hội hóa đầu tư cũng gặp trở ngại khi giá nước thấp nhưng chi phí hạ tầng lại cao, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
“Các doanh nghiệp ít mặn mà vì lợi nhuận thấp, trong khi nhận thức của người dân về tiết kiệm nước còn hạn chế, dẫn đến lãng phí”, ông Mạnh nói.

Người dân trải bạt trữ nước tưới cho cây bưởi tại Tiền Giang (cũ).
Cần cơ chế hấp dẫn
Ông Đặng Thanh Lâm, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, cho biết việc cấp nước sinh hoạt trên hai lưu vực sông lớn Đồng Nai và Cửu Long để phục vụ hơn 20 triệu dân vẫn gặp nhiều khó khăn do đặc điểm địa hình và phân bố nguồn nước không đồng đều.
“Quy hoạch cấp nước cần gắn liền với quy hoạch phòng chống thiên tai, hạn hán và xâm nhập mặn. Các công trình hiện được thiết kế đáp ứng khoảng 85% nhu cầu nhưng trong những năm khô hạn cực đoan vẫn có thể thiếu nước” - ông Lâm lưu ý.
Theo Cục Quản lý và Xây dựng Công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cả nước có khoảng 18.000 công trình cấp nước nông thôn nhưng hơn 6.000 công trình trong số đó chỉ là mô hình nhỏ lẻ, chủ yếu ở miền núi, quy mô vài chục hộ, chất lượng nước chưa đảm bảo.
Hiện mới có 58% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn quốc gia, trong đó chỉ 47% hộ được cấp từ công trình tập trung – nguồn nước được đánh giá là bền vững và an toàn hơn.
Ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng Công trình thủy lợi, cho rằng để đạt mục tiêu nước sạch nông thôn theo Chiến lược quốc gia đến năm 2030, cần triển khai đồng bộ cả thể chế, nguồn lực và phương thức đầu tư.
Bộ đã hoàn thiện dự thảo nghị định mới về quản lý nước sạch nông thôn, quy định rõ từ khâu đầu tư, vận hành đến cơ chế huy động vốn xã hội hóa nhằm khắc phục bất cập và thu hút khu vực tư nhân tham gia.
Ông Anh cũng phân tích về sự chênh lệch vùng miền: ở miền Bắc, hệ thống cấp nước được đầu tư sớm, quy mô tập trung và quản lý ổn định, thuận lợi cho xã hội hóa. Trong khi đó, ở miền Trung, Tây Nguyên và ĐBSCL, dân cư sống phân tán, địa hình phức tạp...khiến đầu tư bị chia nhỏ và kém hiệu quả.
“Những nơi dễ đầu tư thì Nhà nước đã làm xong, còn lại là vùng khó, doanh nghiệp không mặn mà” - ông Anh cho hay.