Hàng xóm không đồng thuận, có được phép xây nhà hay không?
Báo Xây dựng nhận được đơn phản ánh của bà Đỗ Thị Hợp (số 39 Nguyễn Thượng Hiền, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) có nội dung phản đối việc thi công xây dựng của nhà liền kề tại số 37 Nguyễn Thượng Hiền.
Theo bà Hợp, quận Hai Bà Trưng đã cấp giấy phép xây dựng cho ông Chu Xuân Kiên và bà Nguyễn Thị Thanh Phương là chủ nhà số 37 xây dựng nhà ở với quy mô 6 tầng, có hai tầng hầm, có tầng lửng và tum thang.

Hai nhà số 37 và 39 Nguyễn Thượng Hiền cách nhau bởi một lối đi thuộc phần diện tích đất của nhà 39. Ảnh: Mai Thu.
Bà Hợp gửi đơn tới UBND phường Nguyễn Du để phản đối việc cấp giấy phép xây dựng có hai tầng hầm. Bà cho rằng nếu nhà 37 xây hai tầng hầm sẽ làm ảnh hưởng đến nhà 39 của gia đình bà, nhẹ thì vứt vỡ tường, nghiêm trọng hơn có thể đổ sụp.
Bà Hợp không chấp nhận yêu cầu thương lượng, hòa giải với nhà ông Chu Xuân Kiên theo đề nghị của phường; không cho khảo sát đánh giá hiện trạng để có phương án, biện pháp đảm bảo an toàn trong quá trình thi công, đồng thời là cơ sở để xem xét, đánh giá mức độ bồi thường thiệt hại sau này. Bà Hợp cho biết chỉ đồng ý nếu nhà ông Chu Xuân Kiên xây dựng một tầng hầm.
Vậy, nếu bà Đỗ Thị Hợp kiên quyết phản đối, nhà ông Chu Xuân Kiên có được thi công xây dựng hay không?
Về trường hợp này, đại diện UBND phường Nguyễn Du cho biết: Theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 9 Nghị định số 06/2021/NĐ-CP ngày 26/01/2021 của Chính phủ quy định: "Đối với nhà ở riêng lẻ của hộ gia đình, cá nhân có từ 7 tầng trở lên hoặc có từ hai tầng hầm trở lên hồ sơ thiết kế phải được thẩm tra thiết kế xây dựng về nội dung an toàn công trình trước khi xin cấp phép xây dựng. Việc thiết kế và thẩm tra thiết kế phải được tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực theo quy định của pháp luật thực hiện".
Việc ông Kiên đã liên hệ bà Hợp để được khảo sát hiện trạng nhà làm căn cứ bồi thường nếu có ảnh hưởng gây thiệt hại là để đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên được quy định tại Điều 8, Thông tư 39/2009/TT-BXD ngày 9/12/2009 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện các Nghị định của Chính phủ về việc quản lý chất lượng xây dựng nhà ở riêng lẻ. Tuy nhiên, Thông tư này đã được thay thế bởi Thông tư 10/2014/TT-BXD ngày 11/7/2014 của Bộ Xây dựng quy định một số nội dung về quản lý chất lượng xây dựng nhà ở riêng lẻ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/9/2014.
Điều 10, Thông tư 10/2014/TT-BXD ngày 11/7/2014 của Bộ Xây dựng quy định một số nội dung về quản lý chất lượng xây dựng nhà ở riêng lẻ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/9/2014, quy định việc giải quyết tranh chấp giữa chủ nhà với chủ các công trình liền kề, lân cận như sau:
Trước khi thi công, chủ nhà chủ động liên hệ với các chủ công trình liền kề, lân cận để kiểm tra hiện trạng và ghi nhận các khuyết tật của công trình liền kề, lân cận (nếu có).
Trong quá trình thi công, nếu phát hiện công trình liền kề, lân cận có dấu hiệu bị lún, nứt, thấm, dột hoặc có nguy cơ sụp đổ do ảnh hưởng của việc xây dựng nhà ở gây ra, chủ nhà phải phối hợp với các chủ công trình liền kề xem xét, xác định nguyên nhân và thống nhất biện pháp khắc phục. Trường hợp các bên không thống nhất thì tranh chấp phát sinh giữa chủ nhà với chủ các công trình liền kề, lân cận được giải quyết theo quy định của pháp luật.

Luật sư Nguyễn Văn Đỉnh, Đoàn Luật sư TP Hà Nội. Ảnh: NVCC.
Dưới góc độ pháp lý, luật sư Nguyễn Văn Đỉnh (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) phân tích: Theo quy định tại Điều 107 Luật Xây dựng hiện hành, điều kiện để khởi công xây dựng công trình nhà ở riêng lẻ là chủ đầu tư phải có giấy phép xây dựng (đối với công trình phải có giấy phép xây dựng theo quy định tại Điều 89 của Luật này). Giấy phép xây dựng là văn bản pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho chủ đầu tư để xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo, di dời công trình.
Giấy phép xây dựng có bản chất là một "quyết định hành chính" cấp cho chủ đầu tư, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của chủ đầu tư (gồm quyền được tiến hành xây dựng công trình, nghĩa vụ tuân thủ quy định của pháp luật về trật tự xây dựng, bảo vệ môi trường… và bồi thường cho các thiệt hại gây ra).
Do vậy, trường hợp ông Kiên đã được cấp giấy phép xây dựng và đáp ứng điều kiện khởi công theo Điều 107 Luật Xây dựng thì ông Kiên có quyền tiến hành hoạt động xây dựng mà không phụ thuộc vào ý kiến phản đối của bất kỳ chủ thể nào, bao gồm các hộ gia đình, cá nhân sinh sống ở lân cận. Quyền thực hiện hoạt động xây dựng của ông Kiên là quyền được pháp luật bảo đảm (thông qua giấy phép xây dựng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp).
Trường hợp bà Hợp hay các hộ gia đình, cá nhân sinh sống ở lân cận có ý kiến phản đối, cho rằng việc ông Kiên tiến hành xây dựng sẽ ảnh hưởng đến sự an toàn của căn nhà mình thì có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện hành chính theo Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tố tụng hành chính.
Quá trình giải quyết, trường hợp cần thiết, cơ quan Nhà nước có thể ra quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bao gồm yêu cầu dừng thi công, hoặc ra quyết định hủy giấy phép xây dựng. Chỉ trong các trường hợp này, chủ đầu tư mới phải dừng hoạt động xây dựng.
"Cần nhấn mạnh rằng Điều 93 Luật Xây dựng quy định điều kiện cấp giấy phép xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ là phải bảo đảm an toàn cho công trình, công trình lân cận và yêu cầu về bảo vệ môi trường, phòng, chống cháy, nổ. Như vậy, quá trình cấp giấy phép xây dựng, cơ quan nhà nước đã phải đánh giá tác động, mức độ ảnh hưởng của việc thi công xây dựng công trình đến các công trình liền kề.
Trong hồ sơ xin cấp phép xây dựng còn phải có bản vẽ thiết kế xây dựng của tổ chức tư vấn đủ năng lực hoạt động xây dựng. Do vậy, trường hợp bà Hợp cho rằng việc thi công xây dựng của ông Kiên gây mất an toàn cho công trình của mình thì bà Hợp có nghĩa vụ cung cấp hồ sơ, tài liệu, căn cứ… để chứng minh điều đó", luật sư Nguyễn Văn Đỉnh nêu quan điểm.