Hành động mạnh mẽ, phối hợp toàn cầu!

Bảo đảm sinh kế và khả năng chống chịu trước tác động của biến đổi khí hậu ở vùng dễ tổn thương như đồng bằng sông Cửu Long đang là nhu cầu bức thiết, cần sớm thúc đẩy các giải pháp thích ứng.

ThS Lê Thanh Phong, Phó Viện trưởng Biến đổi khí hậu, Trường đại học An Giang (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh).

ThS Lê Thanh Phong, Phó Viện trưởng Biến đổi khí hậu, Trường đại học An Giang (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh).

Nhân Dân cuối tuần có cuộc trò chuyện với ThS Lê Thanh Phong, Phó Viện trưởng Biến đổi khí hậu, Trường đại học An Giang (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) về những nội dung này.

- Thưa ông, hiện trạng nước biển dâng và các hệ lụy đang ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp của bà con đồng bằng sông Cửu Long hiện nay như thế nào?

- Hiện tượng nước biển dâng đang gây ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long. Xâm nhập mặn xuất hiện sớm và tiến sâu hơn vào nội đồng, làm giảm diện tích canh tác lúa và gây hư hại cho cây ăn trái. Bên cạnh đó, sự thay đổi cấu trúc đất và hệ sinh thái nước ngọt khiến việc sản xuất bền vững gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong mùa khô, khi nguồn nước ngọt ngày càng khan hiếm.

Theo kịch bản biến đổi khí hậu của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) năm 2020, mực nước biển có thể tăng khoảng 0,3 cm mỗi năm và đến cuối thế kỷ này, gần 47,3% diện tích đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ bị ngập. Tuy nhiên, thực tế mỗi năm có thể khác nhau, và các tác động của biến đổi khí hậu ngày càng thể hiện rõ rệt hơn. Đồng bằng sông Cửu Long hiện là một trong tám đồng bằng dễ bị tổn thương nhất trên thế giới. Đáng lưu ý, các nghiên cứu gần đây, như của Giáo sư Jay Famiglietti (Đại học Bang Arizona) cho thấy: Việc suy giảm nước ngọt trong đất liền, do mất nguồn nước mặt và khai thác nguồn nước ngầm quá mức, cũng đang góp phần làm nước biển dâng nhanh hơn, bên cạnh nguyên nhân do băng tan bởi biến đổi khí hậu.

Tại đồng bằng sông Cửu Long, nhiều nơi vẫn canh tác ba vụ lúa cao sản liên tiếp, trong đó vụ Thu Đông - thời điểm nước ngọt dồi dào - nước ngọt lại không được giữ lại mà vẫn để trôi nhanh ra biển. Khi thiếu nguồn dự trữ nước, mọi hoạt động sản xuất và đời sống xã hội buộc phải tăng cường khai thác nước ngầm, làm trầm trọng thêm tình trạng sụt lún đất và thiếu nước vào mùa khô.

Điều này cho thấy một nghịch lý trong cách chúng ta đang sử dụng và quản lý tài nguyên nước. Nếu không có những điều chỉnh hợp lý, khủng hoảng nước ngọt và tác động của nước biển dâng sẽ ngày càng lan rộng, không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nhiều mặt khác của đời sống.

- Biến đổi khí hậu là một thực trạng không thể thay đổi, một quá trình tất yếu đã và đang diễn ra. Thời gian qua, từ góc nhìn của một nhà khoa học, một chuyên gia, ông cảm nhận tình trạng đó diễn biến ra sao, không chỉ ở đồng bằng sông Cửu Long, mà trên phạm vi toàn quốc cũng như quốc tế?

- Biến đổi khí hậu là một quá trình tất yếu và không thể đảo ngược trong ngắn hạn. Nếu không có giải pháp phù hợp, đây sẽ là một “cú trượt dốc” về khí hậu trong dài hạn.

Từ góc nhìn của một nhà nghiên cứu về các giải pháp trữ lũ và giữ nước ngọt cho đồng bằng sông Cửu Long, tôi thấy tình trạng này đang diễn biến ngày càng nhanh và phức tạp, không chỉ ở đồng bằng sông Cửu Long mà còn trên toàn quốc và thế giới.

Vấn đề cốt lõi của đồng bằng sông Cửu Long là làm sao giữ lại được nguồn nước ngọt, làm chậm dòng chảy ra biển để kéo dài thời gian sử dụng nước mặt, qua đó giảm xâm nhập mặn và các tác động khác từ nước biển dâng trong mùa khô. Trong khi đó, hơn 90% lượng nước ngọt của vùng này lại phụ thuộc vào nguồn nước từ ngoài lãnh thổ - nơi có nhiều công trình thủy điện, thủy lợi đang làm suy giảm hoặc thay đổi dòng chảy về hạ lưu. Đây là một bài toán nan giải, vì chúng ta không thể kiểm soát được những công trình đó. Do vậy, việc quản lý hiệu quả nguồn nước trong nội vùng, đặc biệt là vào mùa nước dồi dào, là yếu tố then chốt cho tương lai phát triển của đồng bằng sông Cửu Long.

Trong thời gian gần đây, chúng ta chứng kiến hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng mạnh mẽ: nắng nóng kéo dài lập “kỷ lục mới”, ngập lụt “lịch sử” với chu kỳ hàng chục đến hàng trăm năm mới xuất hiện, hạn-mặn nghiêm trọng ở nhiều nơi, hay lũ quét và sạt lở đất tại các tỉnh miền núi phía bắc. Tại đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất cả nước - tình trạng xâm nhập mặn, nước biển dâng và biến động thời tiết ngày càng bất thường đã và đang đe dọa nghiêm trọng đến năng suất cây trồng, mùa vụ, và an ninh lương thực không chỉ của Việt Nam mà cả khu vực.

Trên bình diện toàn cầu, nhiều quốc gia đang phải đối mặt với cháy rừng diện rộng, băng tan nhanh, cạn kiệt nguồn nước ngọt, hạn hán diện rộng và cả hiện tượng di cư do khí hậu. Những biến động này cho thấy biến đổi khí hậu không còn là nguy cơ trong tương lai mà đã trở thành vấn đề cấp thiết hiện tại, tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội.

Đây là thời điểm mà các quốc gia cần hành động mạnh mẽ và có sự phối hợp toàn cầu, đồng thời thúc đẩy những giải pháp thích ứng tại chỗ - đặc biệt ở các vùng dễ tổn thương như đồng bằng sông Cửu Long - để bảo đảm sinh kế và khả năng chống chịu trước các rủi ro của biến đổi khí hậu.

- Nghĩa là, tình trạng nước biển dâng còn có thể trở nên khắc nghiệt hơn nữa?

- Biến đổi khí hậu và nước biển dâng không chỉ là yếu tố nhiệt độ tăng do phát thải khí nhà kính làm tan băng, mà còn bao gồm sự mất đi ngày càng nhiều lượng nước ngọt từ lục địa. Nếu chúng ta không có giải pháp giữ lại lượng nước ngọt nằm trong lục địa, thì lượng nước này sẽ được đổ ra biển dẫn đến tốc độ nước biển tăng nhanh hơn như nghiên cứu của GS Jay Famiglietti (Đại học Bang Arizona) vừa công bố trong năm nay.

- Điều đó cũng có nghĩa là diện tích sản xuất nông nghiệp của nước ta đang đứng trước nguy cơ bị thu hẹp, còn quy trình sản xuất cũng sẽ bắt buộc phải thay đổi. Vậy thì, ông có lời khuyên nào cho từng cá nhân bà con nông dân? Và lời gợi ý nào, cho vấn đề quản trị vĩ mô đối với nông nghiệp cũng như bảo vệ nền an ninh lương thực Việt Nam, hiện tại cũng như lâu dài?

- Tôi không nghĩ rằng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của chúng ta đang đứng trước nguy cơ thu hẹp nhiều, mà điều quan trọng là cần sắp xếp, tổ chức lại không gian canh tác sao cho phù hợp với sự thay đổi của tự nhiên.

Việc điều chỉnh quy trình sản xuất là hoàn toàn cần thiết. Chúng ta có thể phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững dựa trên việc phục hồi các vùng sinh thái chức năng của đồng bằng sông Cửu Long, đúng theo tinh thần của Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 28/2/2022 của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Quyết định số 287/QĐ-TTg cùng ngày của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Đối với bà con nông dân, tôi cho rằng điều quan trọng nhất là thay đổi tư duy sản xuất - từ chạy theo số lượng sang chú trọng chất lượng và phát triển bền vững. Bà con cần sáng tạo ra nhiều giải pháp sử dụng, giữ gìn nguồn nước hiệu quả hơn, chủ động tiếp cận các mô hình nông nghiệp thông minh, tiết kiệm tài nguyên. Đồng thời, việc tham gia các tổ hợp tác, nhóm liên kết hoặc hợp tác xã sẽ giúp giảm chi phí sản xuất, chia sẻ rủi ro, ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa và tăng khả năng tiếp cận kỹ thuật mới cũng như thị trường, tạo thế mạnh cho sản phẩm của chính mình.

Về phương diện quản trị vĩ mô, chúng ta cần xây dựng và thực thi một chiến lược dài hạn, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương nhằm tái cấu trúc nền nông nghiệp trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt. Nghị quyết số 120/NQ-CP đã đưa ra tư duy phát triển “thuận thiên”, trong khi Nghị quyết số 57-NQ/TW đề cập đến việc đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Do đó, rất cần có thêm các cơ chế, chính sách mạnh mẽ nhằm khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp thích nghi với điều kiện tự nhiên, như giải pháp trữ nước ngọt, và thích ứng với biến đổi khí hậu - xem đây như một chiến lược quan trọng ở tầm quốc gia.

Được biết, hiện nay Việt Nam chúng ta đã tổng kết Dự án WB9 (Dự án Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long), đồng thời đang triển khai Dự án WB11. Tôi kỳ vọng rằng Dự án WB11 sẽ dành nhiều sự quan tâm hơn nữa trong việc hỗ trợ các trung tâm đổi mới sáng tạo như các viện nghiên cứu, trường đại học, nhằm thúc đẩy nghiên cứu và phát triển các giải pháp thuận theo tự nhiên cũng như công nghệ mới, từ đó giúp đồng bằng sông Cửu Long chủ động hơn trước những kịch bản biến đổi khí hậu phức tạp, tình trạng nước biển dâng và các tác động ngày càng rõ nét từ thượng nguồn sông Mê Công. Những giải pháp này cần được thiết kế với tầm nhìn dài hạn, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các vùng trong đồng bằng và quan trọng hơn cả, thiết lập được sự cân bằng bền vững giữa con người và thiên nhiên.

-Trân trọng cảm ơn ThS Lê Thanh Phong!

 Xây dựng kè gây bồi, tạo bãi trồng rừng phòng hộ ven biển trên địa bàn tỉnh An Giang. (Nguồn TTXVN)

Xây dựng kè gây bồi, tạo bãi trồng rừng phòng hộ ven biển trên địa bàn tỉnh An Giang. (Nguồn TTXVN)

HOÀNG NGHĨA NAM (thực hiện)

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/hanh-dong-manh-me-phoi-hop-toan-cau-post902681.html